TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 139/2018/DS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 468/2018/TLST-DS ngày 28 tháng 9 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 167/2018/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị C, sinh năm 1957; trú tại: Số 8/47, đường Đ, khu phố T, phường S, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1994; trú tại: Số 348, đường T, Khu phố A, Phường A, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 25-9- 2018); có mặt.
2. Bị đơn: Chị Đinh Huỳnh T, sinh năm 1977; trú tại: Số 290, đường L, khu phố N, phường S, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1974; trú tại: Số 290, đường L, khu phố N, phường S, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 17-9-2018, bản tự khai của nguyên đơn cùng các lời khai tại Tòa án của người đại diện hợp pháp anh Nguyễn Công T trình bày:
Do có mối quan hệ quen biết với nhau nên bà Trần Thị C có cho chị Đinh Huỳnh T vay tiền nhiều lần, đến ngày 30-9-2017 hai bên gút nợ tổng số tiền chị T nợ bà C là 1.050.000.000 đồng và chị T hứa đến tháng 12-2017 sẽ trả cho bà C trước số tiền 500.000.000 đồng; đến hạn chị T không thực hiện, bà C đã nhiều lần yêu cầu chị T trả số tiền nợ trên nhưng chị T không trả; việc vay tiền chồng chị T anh Nguyễn Thanh H biết vì chị T vay tiền mục đích là làm ăn và phục vụ cho sinh hoạt trong gia đình chị T anh H. Nay bà C yêu cầu chị T và anh H cùng có trách nhiệm trả cho bà C số tiền 1.050.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Theo bản tự khai ngày 03-10-2018 và các lời khai tại Tòa án của bị đơn chị Đinh Huỳnh T trình bày:
Do có mối quan hệ quen biết, vào cuối năm 2016 chị có vay tiền của bà Trần Thị C nhiều lần, đến ngày 30-9-2017 chị và bà C gút nợ chị còn nợ bà C số tiền 1.050.000.000 đồng, chị có viết giấy nhận nợ cho C, nay bà C khởi kiện chị đồng ý trả cho bà C số tiền 1.050.000.000 đồng; khi chị vay tiền chồng chị là anh Nguyễn Thanh H không biết, do đây là việc làm ăn giữa chị với bà C, chị là người trực tiếp giao dịch với bà C.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thanh H Tòa án đã tống đạt đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Luật Tố tụng dân sự nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không ghi được ý kiến trình bày. Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh:
- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, tư cách pháp lý và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa sơ thẩm dân sự; người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của nguyên đơn bà Trần Thị C buộc chị Đinh Huỳnh T và anh Nguyễn Thanh H có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị C số tiền 1.050.000.000 đồng; ghi nhận bà C không yêu cầu tính lãi và chị T phải chịu án phí theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:
[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thanh H vắng mặt Tòa án đã tiến hành thủ tục đúng và đây đủ thủ tục tố tụng để đảm bảo cho việc xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện: Theo bà Trần Thị C khai, do có mối quan hệ quen biết với nhau nên vào năm 2016 bà C có cho chị Đinh Huỳnh T mượn tiền nhiều lần, đến ngày 30-9-2017 hai bên chốt nợ, chị T còn nợ bà C số tiền 1.050.000.000 đồng và viết giấy nhận nợ, giấy do chị T viết và ký tên, chị T hứa đến tháng 12-2017 sẽ trả cho bà C trước số tiền 500.000.000 đồng, đến hạn chị T không thực hiện và nhiều lần bà C yêu cầu chị T trả số tiền trên chị T không trả. Nay bà C yêu cầu chị T và anh H cùng có trách nhiệm trả số tiền 1.050.000.000 đồng; chị T đồng ý trả số tiền 1.050.000.000 đồng cho bà C và cho rằng việc làm ăn này giữa chị với bà C chồng chị anh H không biết.
[3] Xét đối với việc bà C yêu cầu anh Nguyễn Thanh H chồng của chị T cùng có trách nhiện trả số tiền 1.050.000.000 đồng; anh H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập nhưng vắng mặt và không có bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà C. Tại phiên tòa, chị T trình bày việc chị làm ăn với bà C chồng chị là anh H không biết nhưng chị mượn tiền của bà C cho người khác vay lại nhằm mục đích kiếm lời để phục vụ cho sinh hoạt gia đình vì thời điểm đó anh H thất nghiệp không có việc làm. Xét thấy chị T mượn tiền của bà C trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của vợ chồng chị T và anh H, việc làm ăn giữa chị T với bà C nhằm mục đích xây dựng kinh tế gia đình đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Căn cứ vào Điều 27 và Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình có cơ sở Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà C.
[4] Xét về chứng cứ: Căn cứ giấy nhận nợ ngày 30-9-2017, thể hiện chị T có mượn tiền của bà C nhiều lần, tổng số tiền 1.050.000.000 đồng, giấy do chị T viết và ký tên; quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị T thừa nhận giấy nhận nợ do chị viết và ký tên là đúng. Như vậy có cơ sở xác định chị T có nợ bà C số tiền 1.050.000.000 đồng là có thật.
[5] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà C không yêu cầu tính lãi Hội đồng xét xử ghi nhận.
[6] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 463; Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27; Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị C buộc vợ chồng chị Đinh Huỳnh T và anh Nguyễn Thanh H có trách nhiệm trả bà C số tiền 1.050.000.000 (một tỷ không trăm năm mươi triệu) đồng vốn gốc. Ghi nhận bà C không yêu cầu tính lãi và chị T phải chịu án phí theo luật định. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những nhận định trên có cơ sở Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị C buộc chị Đinh Huỳnh T và anh Nguyễn Thanh H có trách nhiệm trả bà C số tiền 1.050.000.000 đồng vốn gốc.
[7] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nên chị T phải chịu 43.500.000 đồng tiền án phí sơ thẩm dân sự.
Bà C không phải chịu án phí nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 23.250.000 đồng theo biên lai thu số: 0006066 ngày 28-9-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 463; Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27; Điều 30; Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị C, buộc chị Đinh Huỳnh T và anh Nguyễn Thanh H có trách nhiệm trả bà Trần Thị C số tiền 1.050.000.000 (một tỷ không trăm năm mươi triệu) đồng vốn gốc. Ghi nhận bà C không yêu cầu tính lãi.
2. Án phí: Chị Định Huỳnh T phải chịu 43.500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà C số tiền tạm ứng án phí đã nộp 23.250.000 đồng theo biên lai thu số: 0006066 ngày 28-9-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
3. Kể từ ngày bà Trần Thị C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị Đinh Huỳnh T và anh Nguyễn Thanh H chưa thi hành số tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải trả cho bà C số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
5. Báo cho các đương sự biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Riêng đối các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại UBND xã (phường) nơi cư trú./.
Bản án 139/2018/DS-ST ngày 19/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 139/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về