Bản án 138/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 138/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 ngày 11 tháng 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 143/2020/TLST-HS ngày 13/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn T, sinh ngày: 22/6/1996; tại tỉnh Quảng Nam; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Quang Phường, xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Võ Thị L (s); gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư.

- Tiền án, tiền sự: Không - Bị cáo bắt tạm giam ngày 02/7/2020, hiện đang bị tam giam (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biễn tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 02/7/2020, Trần Văn T đang ở nhà tại thôn Quang Phường, xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thì có một người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua của T 08 viên ma túy thuốc lắc và 01 chỉ ma túy khay thì T đồng ý bán với giá 350.000 đồng/01 viên ma túy thuốc lắc; 01 chỉ ma túy khay với giá 1.500.000 đồng thì người này đồng ý hẹn giao dịch bên hông quán karaoke Mercury tại số 199 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô hiệu Sirius biển số 75K1-347.25 đến tại khu vực cầu Qúa Giáng, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng gặp người thanh niên tên Tuấn (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua thì Tuấn đồng ý bán với giá 08 viên thuốc lắc với giá 300.000 đồng/01 viên và 01 chỉ ma túy khay với giá 1.200.000 đồng để trong gói thuốc lá hiệu White Horse. T nhận và cất giấu vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi đến bên hông sổ nhà 201 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để bán cho người phụ nữ đã hỏi mua nhưng chưa kịp bán thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê bắt quả tang.

Ngoài ra, Trần Văn T còn khai nhận trước đó đã mua của đối tượng tên Tuấn (không rõ nhân thân lai lịch) 02 viên ma túy thuốc lắc với giá 2.100.000 đồng, 02 chỉ khay ma túy với giá 2.400.000 đồng rồi đem bán 02 lần trái phép chất ma túy, cụ thể:

- Lần 1: Vào khoảng cuối tháng 6 (không nhớ rõ thời gian cụ thể) T bán 04 viên ma túy thuốc lắc và 01 chỉ ma túy khay cho một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 2.900.000 đồng tại vũ trường Phương Đông, thành phố Đà Nẵng.

- Lần2: Vào khoảng cuối tháng 6 (không nhớ rõ thời gian cụ thể, cách lần 1 khoảng 1 ngày) T bán 03 viên ma túy thuốc lắc và 01 chỉ ma túy khay cho một người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 2.250.000 đồng tại quán karaoke Paradise, thành phố Đà Nẵng.

Kết quả điều tra không xác định được người bán ma túy cho T và người mua ma túy của T, cũng như không thu giữ được chất ma túy, do chỉ có lời khai nhận tội duy nhất của Trần Văn T, căn cứ khoản 2 Điều 98 của Bộ luật tố tụng hình sự không đủ cơ sở để kết luận và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn T ở 02 lần mua bán trái phép chất ma túy này.

Ngày 03.7.2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiến hành khám xét nơi ở của Trần Văn tùng nhưng không thu giữ tang vật, tài liệu gì liên quan.

Kết quả thử test nước tiểu Trần Văn T dương tính với chất ma túy. Tang vật tạm giữ:

- 01 gói thuốc lá hiệu White Horse bên trong có 08 viên ma túy thuốc lắc và 01 chỉ ma túy khay (thu trong túi quần bên phải phía trước Trần Văn T đang mặc):

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO, gắn số sim 0905468633.

- 01 xe mô tô hiệu Sirius biển số 75K1-374.25; số tiền 1.150.000 đồng Bản kết luận giám định số: 214/GĐ-MT ngày 08/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

- 08 viên nén màu xanh niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, MDMA, khối lượng tinh thể G: 3,173 gam:

- Tinh thể màu trắng niêm phong ký hiệu G2 gửi giám định là ma túy loại Ketamine khối lượng mẫu G2: 0,501 gam.

Căn cứ khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NQĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ được tính là: (3,173gam/5gam) x 100% + (0,501gam/20gam) x 100% = 65.97% < 100% nên hành vi của Trần Văn Tùng đã phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" thuộc khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Xử lý tang vật, tài sản tạm giữ:

+ Đối với 01 xe mô tô Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 75K1-374.25 do anh Phan Quốc Anh (sinh năm 1985, trú tại Lộc Thủy, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế) đứng tên đăng kí xe. Vào ngày 08/5/2019 anh Quốc Anh đã cầm cố xe này cho tiệm cầm đồ Hưng Thịnh số 146 Nguyễn Lương Bằng, thành phố Đà Nẵng do anh Trần Thanh Hưng (sinh năm 1979, trú tổ 03 phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) làm chủ, đến ngày 08/6/2020 anh Quốc Anh không đến chuộc lại. Ngày 24/6/2020 anh Hưng cho Trần Văn T thuê lại chiếc xe mô tô này để đi lại nhưng không biết T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, nên ngày 20/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã xe mô tô nêu trên cho anh Hưng.

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO, gắn số sim 0905468633; số tiền 1.150.000 đồng; 01 bì niêm phong số 214/GĐ-MT ngày 08/7/2020 có đóng dấy giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Đà Nẵng là mẫu vật ma túy hoàn lại sau giám định tiếp tục tạm giữ để chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê quản lý, bảo quản trong giai đoạn xét xử.

Nguyên nhân: do không có tiền tiêu xài cá nhân và nghiện ma túy đá nên Trần Văn T đã có hành vi đi mua ma túy để bán cho ngươi khác để kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 143/CT- VKS-TK ngày 12/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn T.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

+ Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 03(ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tịch thu tiêu hủy mẫu vật là ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 214/GĐ-MT ngày 08/7/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động OPPO có gắn số sim 0905468633:

+ Trả lại cho số tiền 1.150.000 đồng cho bị cáo Trần Văn T.

Hiện tất cả vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

- Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đã nhận thấy sai trái, rất hối hận, gia đình bị cáo khó khăn xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Văn Tùng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Do muốn có tiền để tiêu xài cá nhân và ma túy để sử dụng nên vào khoảng 15 giờ ngày 02/7/2020 bị cáo điều khiển xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát 75K1-374.25 đến tại khu vực cầu Qúa Giáng, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng mua của một người tên Tuấn (không rõ nhân thân lai lich) 08 viên thuốc lắc với giá 300.000 đồng/01 viên và 01 chỉ ma túy khay với giá 1.200.000 đồng để trong gói thuốc lá hiệu White Horse. Sau đó bị cáo điều khiển xe mô tô đi đến bên hông sổ nhà 201 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để bán cho người phụ nữ đã hỏi mua nhưng chưa kịp bán thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê bắt quả tang Tại bản kết luận giám định số: 214/GĐ-MT ngày 08/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: 08 viên nén màu xanh niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, MDMA, khối lượng tinh thể G: 3,173 gam; Tinh thể màu trắng niêm phong ký hiệu G2 gửi giám định là ma túy loại Ketamine khối lượng mẫu G2: 0,501 gam.

Căn cứ khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NQĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ được tính là: (3,173gam/5gam) x 100% + (0,501gam/20gam) x 100% = 65.97% < 100%. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi mua ma túy nhằm bán trái phép cho người khác để kiếm lời của bị cáo Trần Văn T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có cơ sở đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Trần Văn T đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức được mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang là tệ nạn của xã hội, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, lao động, trí tuệ của con người và là nguyên nhân của các tội phạm khác gây mất an ninh trật tự xã hội, nhưng vì lười lao động, muốn có ma túy để sử dụng và muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời còn giúp bị cáo đoạn tuyệt với ma túy mặt khác còn là bài học giáo dục răn đe đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; cha của bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang, ông ngoại của bị cáo là liệt sĩ, bà cố của bị cáo là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, bản thân bị cáo là bộ đội xuất ngũ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng cho bị cáo.

[5] Xét hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có khả năng thi hành án. Do đó Hội đồng xét xử, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Đối với mẫu ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 214/GĐ-MT ngày 08/7/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, đây là vật chứng của vụ án và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 điện thoại di động OPPO có gắn số sim 0905468633 của bị cáo Trần Văn T, bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu bán hóa giá nộp ngân sách Nhà nước.

+ Đối với số tiền 1.150.000 đồng thu giữ của bị cáo Trần Văn T, đây là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo cho thi hành án.

Hiện tất cả vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 tháng 10 năm 2020.

[8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Văn T, Công an quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 65/QĐ-XPHC ngày 08/7/2020 với số tiền 750.000 đồng là có căn cứ.

+ Đối với người thanh niên tên Tuấn bán ma túy và người phụ nữ hỏi mua ma túy của T đều không rõ nhân thân lai lịch cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau. [9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

 Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 02 tháng 7 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 214/GĐ-MT ngày 08/7/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng:

- Tịch thu bán hóa giá nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO có gắn số sim 0905468633:

- Trả số tiền 1.150.000 đồng (một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) cho bị cáo Trần Văn T. Nhưng tiếp tục quy trữ để đảm cho thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 tháng 10 năm 2020 và biên lai thu tiền số 007458 ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:138/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về