TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 138/2017/HSST NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Long Thành tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 135/2017/HSST, ngày 06 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Huỳnh Văn L; sinh năm 1990. Tên gọi khác: Không.
Hộ khẩu thường trú: xã P, huyện L, tỉnh Đ.
Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.
Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: không Họ và tên cha: Huỳnh Văn L, sinh năm: 1955. Họ và tên mẹ: Võ Thị G, sinh năm: 1953.
Bị cáo là con thứ 03 trong gia đình có 05 anh em và chưa có vợ con.
Tiền án: Ngày 27/9/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 07 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (bản án số 73/HSST ngày 22/7/2009) đến ngày 19/5/2014 chấp hành xong.
Tiền sự: Ngày 15/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại cơ sở tư vấn và điều trị cai nghiện ma túy tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thời hạn 15 tháng đã chấp hành xong vào ngày 06/7/2017.
Nhân thân: Ngày 25/7/2006 đưa vào Trường giáo dưỡng số 4, thời hạn 24 tháng. Đến ngày 03/4/2008 chấp hành xong.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/9/2017 đến ngày 05/10/2017 chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành.
Người bị hại:
1. Anh Trần Đình P, sinh năm: 1971.
2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1978. Địa chỉ: xã P, huyện L, tỉnh Đ.
(Bị cáo L có mặt, người bị hại anh P, chị N vắng mặt tại phiên tòa).
NHẬN THẤY
Bị cáo Huỳnh Văn L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Huỳnh Văn L có tiền án về tội cố ý gây thương tích, không có nghề nghiệp và là người nghiện ma túy. Để có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, vào lúc 13 giờ ngày 27/9/2017 L đi tìm nhà nào có tài sản sơ hở để trộm cắp. Lúc 13 giờ 25 phút cùng ngày L đi bộ đến ấp C, xã P, huyện Long Thành quan sát thấy nhà chị Nguyễn Thị N cửa mở không có người trông coi, L đột nhập theo lối cửa mở vào nhà chị N, L đi thẳng vào phòng ngủ mở ngăn tủ nhựa thấy có 01 ví da màu trắng và 02 điện thoại di động để trên đầu tủ, sau khi lấy được tài sản L bỏ đi ra cách nhà chị N khoảng 50 mét, L mở ví da màu trắng ra kiểm tra thì thấy bên trong chứa 01 chiếc nhẫn vàng 9999 (trọng lượng 5 phân); 01 dây chuyền vàng 18K (trọng lượng 1,7 chỉ); 01 đôi bông bạch kim (trọng lượng 5g20), 01 chiếc lắc bạch kim (trọng lượng 18g 75); 01 chiếc nhẫn kiểu bạch kim (trọng lượng 05g 20); 02 điện thoại di động trong đó 01 điện thoại samsung màu trắng, đời E1200 và 01 điện thoại di động Nokia, màu đen, đời 1200 và 01 sợi dây chuyền bạc. Đối với sợi dây chuyền bạc, 01 lắc bạch kim màu trắng, L nghĩ những thứ này là đồ giả nên vứt bỏ tại đây cùng với chiếc điện thoại Samsung màu trắng. Đối với số tài sản còn lại gồm chiếc nhẫn vàng (05 phân) 9999, sợi dây chuyền vàng 18K (trọng lượng 1,7 chỉ), đôi bông tai bạch kim (trọng lượng 5g20) và 01 chiếc nhẫn kiểu bạch kim (trọng lượng 05g 20) L khai đưa đến bán cho tiệm vàng Mỹ Hoa ở xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và tiệm vàng Đức Ân ở xã
Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Đến 21 giờ cùng ngày bị hại Nguyễn Thị N phát hiện mất tài sản nên mở camera gắn ở phòng khách bên trong nhà ra xem thì thấy Huỳnh Văn L đột nhập vào nhà trộm cắp. Sau đó, anh Trần Văn P (là chồng chị N) đến Công an xã P trình báo, tại Công an bị cáo L đã khai toàn bộ hành vi của mình.
Vật chứng vụ án: 01 chiếc lắc đeo tay bạch kim, 01 điện thoại Samsung E1200 màu trắng đã qua sử dụng, 01 sợi dây chuyền bạc đã thu hồi trả lại bị hại.
Tại bản kết luận số 87/KL.ĐGTSTT ngày 03/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng huyện Long Thành kết luận: Tài sản thiệt hại là 36.700.000 đồng.
Đối với tài sản bị cáo L khai bán cho tiệm vàng Mỹ Hoa và tiệm vàng Đức Ân nhưng chủ tiệm vàng Đức Ân và tiệm vàng Mỹ Hoa không thừa nhận, quá trình điều tra bị cáo L không thành khẩn khai báo, vì vậy không xác định được bị cáo đã bán số tài sản trên ở đâu nên không thu hồi được.
Tại Cáo trạng số 129/VKS – HS, ngày 31 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo Huỳnh Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn L từ 30 – 36 tháng tù giam.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo L bồi thường trị giá tài sản bị chiếm đoạt theo quy định pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai trong hồ sơ và cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 27/9/2017 tại nhà chị Nguyễn Thị N, anh Trần Đình P ở ấp C, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Huỳnh Văn L có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 ví da bên trong có chứa 01 chiếc nhẫn vàng 9999 (trọng lượng 5 phân); 01 dây chuyền vàng 18K (trọng lượng 1,7 chỉ); 01 đôi bông bạch kim (trọng lượng 5g20), 01 chiếc lắc bạch kim ( trọng lượng 18g 75); 01 chiếc nhẫn kiểu bạch kim (trọng lượng 05g 20); 02 điện thoại di động trong đó 01 điện thoại samsung màu trắng, đời E1200; 01 điện thoại di động Nokia, màu đen, đời 1200 và 01 sợi dây chuyền bạc. Tài sản chiếm đoạt có tổng giá trị là 36.700.000 đồng (theo kết luận định giá tài sản số 87/KL.ĐGTTHS ngày 03/10/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Long Thành). Hành vi của bị cáo Huỳnh Văn L đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mặt khác gây ảnh hưởng xấu về an ninh và trật tự trong xã hội. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng hành vi, hậu quả mà bị cáo đã gây ra.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án, ngày 27/9/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 07 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (bản án số 73/HSST ngày 22/7/2009) đến ngày 19/5/2014 chấp hành xong, chưa được xóa án tích mà phạm tội mới. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Bị cáo có 01 Tiền sự: Ngày 15/11/2016 Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại cơ sở tư vấn và điều trị cai nghiện ma túy tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thời hạn 15 tháng đã chấp hành xong vào ngày 06/7/2017.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị N, anh Trần Đình P có đơn yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị những tài sản bị cáo chiếm đoạt gồm: 01 chiếc nhẫn vàng 9999 (trọng lượng 5 phân); 01 dây chuyền vàng 18K (trọng lượng 1,7 chỉ); 01 đôi bông bạch kim (trọng lượng 5g20); 01 chiếc nhẫn kiểu bạch kim (trọng lượng 05g 20) và 01 điện thoại Nokia 1200 màu đen có tổng giá trị là 18.650.000 đồng (theo kết luận định giá tài sản số 87/KL.ĐGTTHS ngày 03/10/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Long Thành). Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Văn L đồng ý bồi thường cho người bị hại số tiền nên trên. Vì vậy cần buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại số tiền là 18.650.000 đồng.
Về biện pháp tư pháp: 01 chiếc lắc đeo tay bạch kim, 01 điện thoại Samsung E1200 màu trắng đã qua sử dụng, 01 sợi dây chuyền bạc đã thu hồi trả lại bị hại nên không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo, ngày 29/9/2017.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Huỳnh Văn L phải bồi thường cho người bị hại Nguyễn Thị N và Trần Đình P số tiền là 18.650.000 đồng (mười tám triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng).
Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 932.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo Huỳnh Văn L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người bị hại Nguyễn Thị N, Trần Đình P có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 138/2017/HSST ngày 29/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 138/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về