Bản án 137/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 137/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 123/2019/TLST-HS ngày 10/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2019/QĐXXST-HS ngày 03/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Văn Vũ L (tên gọi khác: Phú); giới tính: Nam; sinh năm 1990; nơi sinh: Tỉnh Bến Tre; nơi ĐKHKTT: 219B ấp Bình An, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; họ tên cha: Hồ Văn T, sinh năm 1970; họ tên mẹ: Huỳnh Thị N, sinh năm 1965; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Ngày 22/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Án số 80/2014/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2015, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt số 1208/GCN của Giám thị trại giam Châu Bình, chưa nộp án phí dân sự sơ thẩm và bồi thường dân sự.

Tiền sự: Không; tạm giam ngày 27/3/2019; bị cáo, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1977; nơi cư trú: 63/B Ấp Tân Thuận, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lưu Thắng E, sinh năm 1985; nơi cư trú: 315 AKV, Thạnh Hưng, phường P, quận C, thành phố cần Thơ (Vắng mặt).

2. Ông Trần Minh T, sinh năm 1980; nơi cư trú: 204 ấp Bà Nghĩa, xã T, huyện C, tỉnh Long An (Vắng mặt).

3. Bà Trần Ngọc H, sinh năm 1992; nơi cư trú: Ấp Sào Lưới B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt).

4. Ông Trần Văn G, sinh năm 1970; nơi cư trú: 204 ấp Bà Nghĩa, xã T, huyện C, tỉnh Long An (Vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1977; nơi cư trú: Ấp 2, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 6 năm 2018, thông qua mạng xã hội, Hồ Văn Vũ L biết anh Lưu Thắng E đang cần một số lượng lớn cát để làm công trình nên Linh nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt cát để bán cho anh Em. Linh lên mạng tìm thì biết anh Nguyễn Hoàng T đang có sẵn lượng cát lớn. Linh liên hệ với anh Thắng E chào bán cát với giá thấp hơn nhiều so với giá cát mà anh Hoàng T bán cho Linh (anh Hoàng T báo giá 1012m3 cát với giá là 131.000.000 đồng nhưng Linh chỉ bán cho anh Thắng E với giá 80.000.000 đồng). Khi anh Thắng E đồng ý mua, Linh chủ động liên hệ giao dịch mua cát của anh Hoàng T. Sau khi đồng ý bán cát cho Linh, ngày 30/6/2018, anh Hoàng T mua 1012m3 cát của anh Trần Minh T cư trú tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An và yêu cầu anh Minh T neo đậu sà lan số hiệu LA-05174 chở 1012m3 cát tại khu vực tổ 4, ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh để giao cát theo yêu cầu của Linh. Sau khi Linh dẫn anh Thắng E đến sà lan để xem cát, anh Thắng E đồng ý mua số cát trên sà lan với giá 80.000.000 đồng và kêu Linh bơm cát vào công trình đường cao tốc Bến Lức - Long Thành rồi hẹn Linh ra quán cà phê gần cầu Ông Thìn nhận tiền. Sau khi bơm cát xong, anh Hoàng T, anh Nguyễn Hoàng N là bạn anh Hoàng T và Linh đến quán cà phê của chị Nguyễn Kim T tại tổ 4, ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh để thanh toán tiền bán cát. Lúc này, thì Linh nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Future Neo biển so 66B1-362.40 của anh Hoàng T, Linh giả vờ hỏi mượn xe mô tô của anh Hoàng T, Bằng thuyền trưởng và Giấy đăng kiểm của sà lan số hiệu LA-05174 để về Công ty làm thủ tục quyết toán, anh Hoàng T đồng ý. Linh điều khiển xe đến cầu Ông Thìn gặp anh Thắng E tại quán cà phê Tường Vy, địa chỉ D2/54 ấp 4, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh lấy 80.000.000 đồng rồi bỏ trốn. Anh Hoàng T đợi lâu nhưng không thấy Linh quay lại nên điện thoại cho Linh thì Linh cho biết đang cấp cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy rồi Linh tắt máy không liên lạc được (qua xác minh tại bệnh viện Chợ Rẫy từ ngày 01/01/2018 đến ngày 10/9/2018 thì bệnh viện không tiếp nhận ai tên là Hồ Văn Vũ L đến nhập viện điều trị). Sau đó, Linh đem xe mô tô hiệu Honda Future Neo biển số 66B1-362.40 về nhà bạn gái là Trần Ngọc H tại ấp Sào Lưới B, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cất giấu. Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, anh Hoàng T đến Công an xã Hưng Long trình báo, sau đó vụ việc được chuyển đến Công an huyện Bình Chánh thụ lý điều tra.

Ngày 10/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh khởi tố vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 19/9/2018, Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh đã mời Linh về trụ sở làm việc; đồng thời thu giữ xe mô tô biển số 69N1-467.02 mà Linh đang sử dụng. Sau đó, Trần Ngọc H cũng đến Công an huyện Bình Chánh giao nộp xe Future Neo (không biển số, số máy: JC35E2745098, số khung: RLHJ35078Y625580). Ngày 07/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh khởi tố bị can đối với Hồ Văn Vũ L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Quá trình điều tra, Hồ Văn Vũ L bỏ trốn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh ra Quyết định truy nã đối với Linh và tạm đình chỉ điều tra vụ án, bị can đối với Linh.

Ngày 27/3/2019, Hồ Văn Vũ L bị Công an huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre bắt theo Quyết định truy nã, chuyển đến Công an huyện Bình Chánh phục hồi điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Kết luận định giá tài sản số 251/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 12/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh kết luận: 1012m3 cát dùng để san lấp (cát đen) trị giá 131.560.000 đồng (BL: 74).

Kết luận định giá tài sản số 252/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 12/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh kết luận: Xe mô tô hiệu Future Neo biển số 66B1-362.40 trị giá 13.700.000 đồng (BL: 76).

Tổng trị giá tài sản mà Hồ Văn Vũ L chiếm đoạt của anh Nguyễn Hoàng T là 145.260.000 đong.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Hồ Văn Vũ L đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án (BL: 138 - 150).

Vật chứng vụ án: 01 xe mô tô Future Neo biển số 66B1-362.40, số máy: JC35E2745098, số khung: RLHJC35078Y625580; 01 xe mô tô Wave biển số 69N1- 467.02, số máy: JA39E0484980, số khung: RLHJA3902HY509820; 01 bằng thuyền trưởng mang tên Trần Minh T; 01 sổ đăng kiểm sà lan số hiệu LA-05174. Tất cả số vật chứng trên đã được trả lại cho chủ sở hữu.

Tại bản Cáo trạng số 134/CT-VKS ngày 28 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Hồ Văn Vũ L về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hồ Văn Vũ L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Xử phạt bị cáo Hồ Văn Vũ L từ 04 năm đến 05 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và buộc bị cáo bồi thường dân sự cho bị hại.

Bị hại ông Nguyễn Hoàng T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 131.000.000 đồng tương đương với 1012m3 cát và tiền sửa xe mô tô Future Neo biển số 66B1-362.40 với số tiền 8.000.000 đồng, đề nghị xét xử bị cáo theo quy định pháp luật.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt không lý do, lời khai của những người này tại Cơ quan điều tra thể hiện không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Hồ Văn Vũ L tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 138 - 152); phù hợp với lời khai của bị hại ông Nguyễn Hoàng T tại tòa và tại Cơ quan điều tra (BL: 110-119); phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Minh T, Lưu Thắng E (BL: 123 - 125, 126 - 136); phù hợp với lời khai của người làm chứng Nguyễn Hoàng N (BL: 95 - 101) phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án; Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả định giá tài sản... cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Với ý định chiếm đoạt tài sản từ trước, ngày 30/6/2018 bị cáo Hồ Văn Vũ L đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm tạo lòng tin để ông Nguyễn Hoàng T giao tài sản, sau đó chiếm đoạt của ông Tân 01 xe mô tô hiệu Honda future Neo biển số 66B1 - 362.40 có giá trị là 13.700.000 đồng và 1012m3 cát có trị giá là 131.560.000 đồng (Căn cứ vào các kết luận về giá tài sản số 251 và 152/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 12/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh). Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 145.260.000 đồng tại tổ 4, ấp 3, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh.

Với những tình tiết được chứng minh trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hồ Văn Vũ L đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[3] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, mục đích phạm tội là muốn có tiền tiêu xài cho bản thân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng bản tính tham lam, biếng lười lao động nên bị cáo cố ý phạm tội. Tội phạm bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, tạo tâm lý hoang mang, gây mất niềm tin cho người dân. Cũng như sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn, chỉ bắt được bị cáo theo Quyết định truy nã của Cơ quan điều tra. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 145.260.000 đồng là thuộc trường hợp định khung hình phạt, cần áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xét xử bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Xét về nhân thân: Tính đến ngày phạm tội, bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, ngày 22/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Án số 80/2014/HSST, bị cáo chưa nộp án phí dân sự sơ thẩm và bồi thường dân sự. Do đó, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, cần áp dụng Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo là phù hợp.

[6] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[7] Đối với bà Trần Ngọc H có hành vi cho bị cáo Hồ Văn Vũ L cất giữ chiếc xe mô tô hiệu Honda Future Neo biển số 66B1 - 362.40 tại nhà của mình. Tuy nhiên, do bà Hân không biết chiếc xe này là tàn sản do bị cáo phạm tội mà có, bà Hân tự giao nộp chiếc xe này cho Cơ quan điều tra nên không có cơ sở để xử lý bà về hành vi “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Về dân sự: Bị hại Nguyễn Hoàng T yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền là 139.000. 000 đồng, bao gồm: 131.000.000 đồng tương đương với giá trị 1012m3 cát và 8.000.000 đồng tiền sửa xe mô tô Future Neo biển số 66B1-362.40, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Xét sự thỏa thuận của các đương sự là không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô Future Neo biển số 66B1-362.40, số máy: JC35E2745098, số khung: RLHJC35078Y625580, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm thủ tục giao trả cho bị hại ông Nguyễn Hoàng T theo Biên bản về việc trả lại đồ vật tài liệu của Công an huyện Bình Chánh được lập vào hồi 10 giờ ngày 25/01/2019.

Đối với 01 xe mô tô Wave biển số 69N1-467.02, số máy: JA39E0484980, số khung: RLHJA3902HY509820, qua xác minh xe này thuộc quyền sở hữu của bà Trần Ngọc H là bạn gái bị cáo, bà cho bị cáo mượn đi công việc và không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm thủ tục giao trả cho bà Hân theo Biên bản về việc trả lại đồ vật tài liệu của Công an huyện Bình Chánh được lập vào hồi 16 giờ ngày 27/3/2019.

Đối với 01 sổ đăng kiểm sà lan số hiệu LA-05174, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm thủ tục giao trả cho ông Trần Văn G theo Biên bản về việc trả lại đồ vật tài liệu của Công an huyện Bình Chánh được lập vào hồi 14 giờ ngày 15/01/2019.

Đối với 01 bằng thuyền trưởng mang tên Trần Minh T, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm thủ tục giao trả cho ông Trần Minh T theo Biên bản về việc trả lại đồ vật tài liệu của Công an huyện Bình Chánh được lập vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 15/01/2019.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hồ Văn Vũ L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ Điểm c Khoản 2 Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Hồ Văn Vũ L 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/3/2019.

Về dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Hồ Văn Vũ L phải bồi thường thiệt hại cho bị hại là ông Nguyễn Hoàng T số tiền cụ thể là 139.000.000 đồng (Một trăm ba mươi chín triệu đồng), thực hiện một lần ngay khi Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thực hiện việc thi hành án thì còn phải trả thêm tiền lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Khi bản án có liệu lực pháp luật, đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo các Điều 7, 30, 31 và 32 của Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm và 6.950.000 đồng (Sáu triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo và các đương sự có mặt tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:137/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về