Bản án 137/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 137/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 527/2019/TLST-HNGĐ ngày 23/5/2019 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 184/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27/6/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Cẩm T, sinh năm 1975, có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Hữu H, sinh năm 1976, có mặt.

Địa chỉ: Cùng ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 14/5/2019 và tại phiên Tòa, nguyên đơn Bà Lê Thị Cẩm T trình bày tóm tắt như sau:

Bà và Ông Trần Hữu H là vợ chồng, cưới nhau từ năm 1996, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh T. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã nhau. Cuộc sống không hợp, không đem lại hạnh phúc, tình nghĩa vợ chồng rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông Trần Hữu H.

Con chung: Bà và ông H sống với nhau có 02 con chung tên Trần Lê Tú Q, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2002 và Trần Yến V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2009, hiện nay các con chung sống với bà nếu như ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà trình bày về tài sản chung bà và ông H tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn: Ông Trần Hữu H trình bày: ông xác nhận lời trình bày của bà Cẩm T về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống con chung cũng như tài sản chung và nợ chung như lời trình bày của bà Cẩm T. Nhưng về tình cảm thì ông cho rằng giữa ông và bà T không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình, vợ chồng có gây gỗ nhau, hiện tại đang sống chung nhà nhưng quan hệ vợ chồng chấm dứt từ năm 2018. Ông còn thương vợ, thương con không đồng ý ly hôn muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con chung. Nếu như có căn cứ Tòa án cho ly hôn thì con chung, các con muốn sống với ai thì người đó nuôi dưỡng tùy theo nguyện vọng của các con, về cấp dưỡng không bên nào cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung ông đồng ý theo lời trình bày của bà Cẩm T, tài sản chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Toà, trên cơ sở trình bày của các đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Quan hệ pháp luật, Bà Lê Thị Cẩm T yêu cầu xin được ly hôn với ông Trần Hữu H, xét thấy đây là vụ án hôn nhân gia đình, thẩm quyền căn cứ vào Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Cẩm T và Ông Trần Hữu H cưới nhau vào năm 1996, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 28/3/1996 (số 605/1996, quyển số 01/1996) nên quan hệ hôn nhân của bà Cẩm T và ông H được pháp luật thừa nhận là hợp pháp từ thời điểm đăng ký kết hôn.

[3] Bà Cẩm T cho rằng cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc là do không hợp nhau, thường xuyên cải vả, tình cảm vợ chồng rạng nứt, khó hàn gắn. Tuy nhiên giữa bà và ông H còn sống chung nhà nhưng quan hệ vợ chồng chấm dứt từ năm 2018. Nay bà Cẩm T yêu cầu xin ly hôn ông Trần Hữu H. Về con chung có 02 con chung, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung không yêu cầu ông H cấp dưỡng, về tài sản chung bà Cẩm T cho rằng tự thỏa thuận, nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Trần Hữu H cho rằng về tình cảm vợ chồng ông cũng thừa nhận giữa ông và bà T có mâu thuẫn nhau nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong gia đình và giữa ông bà T tuy sống chung nhà nhưng hai bên chấm dứt quan hệ vợ chồng từ năm 2018 cho đến nay. Điều này cho thấy, chứng tỏ rằng về tình cảm vợ chồng giữa bà Cẩm T và ông H có mâu thuẫn.

Nay bà Cẩm T yêu cầu xin ly hôn ông H không đồng ý. Giữa bà Cẩm T và ông H cả hai điều thừa nhận sống chung nhau có mâu thuẫn, tuy nhiên còn sống chung nhà nhưng chấm dứt quan hệ vợ chồng từ năm 2018 cho đến nay. Bà Cẩm T yêu cầu xin ly hôn ông H không đồng ý nhưng ông H không có biện pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn giữa ông và bà Cẩm T để bà Cẩm T bỏ qua mâu thuẫn tiếp tục chung sống với ông. Mặt khác, tại Tòa bà Cẩm T vẫn cương quyết ly hôn với ông H. Từ đó thấy rằng, mâu thuẫn giữa bà Cẩm T và ông H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cho bà Lê Thị Cẩm T được ly hôn với ông Trần Hữu H.

Về con chung cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Cẩm T và ông H thống nhất xác định có 02 con chung tên Trần Lê Tú Q, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2002 và Trần Yến V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2009, bà T và ông H thống nhất các con có nguyện vọng theo ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng bên không trực tiếp nuôi không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, theo bản tự khai của Trần Lê Tú Q và Trần Yến V thì nguyện vọng của Tú Q và Yến V, ba mẹ ly hôn các cháu xin được sống với mẹ nên khi giải quyết giữa bà Cẩm T và ông H ly hôn nên tôn trọng nguyện vọng của cháu Tú Q và Yến V cũng như yêu cầu của bà T khi ly hôn xin được nuôi các con chung, nên để cho bà Cẩm T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung, về cấp dưỡng nuôi con chung ông H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Cẩm T và ông H xác định tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về tài sản chung và nợ chung thì được yêu cầu giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

[4] Về án phí: Bà Lê Thị Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 luật hôn nhân gia đình; Điều 6 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận theo đơn khởi kiện của bà Lê Thị Cẩm T đối với ông Trần Hữu H.

Về hôn nhân: Bà Lê Thị Cẩm T được ly hôn với ông Trần Hữu H.

Về quyền nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung:

Bà Lê Thị Cẩm T được quyền trực tiếp nuôi cháu Trần Lê Tú Q, sinh ngày 8 tháng 8 năm 2002 và cháu Trần Yến V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2009. Ông Trần Hữu H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Đối với ông H, không trực tiếp nuôi con được quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản, khi cần thiết các bên có thể thay đổi tình trạng nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về án phí: Bà Lê Thị Cẩm T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, sung công quỹ Nhà nước, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004722 ngày 23/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Án sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:137/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về