Bản án 137/2017/HSST ngày 08/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 137/2017/HSST NGÀY 08/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 147/2017/HSST ngày 11/7/2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 526/HSST-QĐ ngày 20/7/2017 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Đặng Quang T, sinh năm 1991; Đăng ký NKTT và chỗ ở: khóm 2, Phường 8, Tp Cà Mau, tỉnh Cà Mau; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Tài xế;

Cha của bị cáo là ông Đặng Chí T, sinh năm 1961 trú tại: số 72, Rạch Rập, khóm 2, Phường 8, Tp Cà Mau, tỉnh Cà Mau và mẹ là bà Trần Thị Y, sinh năm 1959 đang sinh sống ở tỉnh Đồng Nai (không rõ địa chỉ cụ thể); Anh chị em ruột: 04 người. Bị cáo là con thứ 3 trong gia đình;

Vợ: Trần Thảo N, sinh năm 1993 (đã ly hôn) Con: 01 đứa tên Đặng Quang T, sinh năm 2015 hiện do chị N nuôi dưỡng.

Tiền sự, tiền án: Không;

Bị bắt tạm giữ: ngày 25/12/2016 (quả tang)

Tạm giam: từ ngày 03/01/2017 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Lâm Quốc T (Cu bi), sinh năm 1991

Địa chỉ: khóm 2, phường 8, Tp.Cà Mau.

Chỗ ở: khóm 7, phường 8, Tp.Cà Mau (vắng mặt)

2/ Chị Lê Trần Kim N, sinh năm 1988 (vắng mặt)

Địa chỉ: khóm 7, phường 8, Tp.Cà Mau

3/ Anh Đoàn Thanh T, sinh năm 1985

Địa chỉ: khóm 5, phường 2, Tp Cà Mau.

Chỗ ở: ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm, Tp.Cà Mau (vắng mặt)

4/ Chị Trương Nhật N, sinh năm 1994

Địa chỉ: khóm 2, phường 1, Tp.Cà Mau (vắng mặt)

5/ Anh Lâm Quốc M, sinh năm 1994

Địa chỉ: xã Lý Văn Lâm, Tp.Cà Mau (vắng mặt)

6/ Chị Trần Cẩm T, sinh năm 1993

Địa chỉ: xã Lâm Hải, huyện Năm Căn, Tp.Cà Mau.

Chỗ ở: khóm 1, phường 8, Tp.Cà Mau (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Đặng Quang T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào lúc 21 giờ ngày 24/12/2016, Lực lượng phòng cảnh sát điều tra về tội phạm Công an tỉnh Cà Mau kết hợp với Công an phường 6, Tp.Cà Mau kiểm tra, bắt quả tang Đặng Quang T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại (Trạm xe khách Tuấn Hưng) địa chỉ số 119, đường Lý Thương Kiệt, khóm 4, phường 6, thành phố Cà Mau. Tang vật thu giữ gồm:

- 01 (một) bọc nilon màu đen, bên ngoài bọc nilon có quấn băng keo màu vàng, có dáng phiếu gửi hàng, ghi tên người gửi NINASHOP và người nhận NGỌC số điện thoại 0918.230.402, bên trong bọc nilon màu đen có một cái áo khoác màu xám đen, bên trong cái áo khoác có cất giấu 03 bịch nilon màu trắng:

+ Bịch nilon màu trắng thứ nhất: bên trong có chứa 102 viên dạng nén có hình tròn màu trắng, trên bề mặt mỗi viên có chữ B (nghi là ma túy);

+ Bịch nilon màu trắng thứ hai: bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng rắn (nghi là ma túy);

+ Bịch nilon màu trắng thứ ba: bên trong có chứa 86 bịch nilon màu trắng nhỏ không chứa đựng.

Số tang vật trên thu giữ đã được niêm phong kín có chữ ký và ghi họ tên Đặng Quang T.

- Kiểm tra trên người Đặng Quang T thu giữ 01 cái bóp da màu đen, bên trong bóp có 04 bịch nilon màu trắng, bên trong mỗi bịch nilon màu trắng có chứa chất bột màu trắng dạng rắn (nghi là ma túy) đã niêm phong kín có chữ ký và ghi họ tên Đặng Quang T;

- Tiền Việt Nam là 31.500.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo T;

- 02 (Hai) chứng minh nhân dân: 01 CMND mang tên Đặng Quang T số CM 381482716; 01 CMND mang tên Trần cẩm T số CM 381683926;

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy đứng tên Vũ Minh H;

- 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Đặng Quang T;

- 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu OPPO màu trắng và sim số 01297514515 của Trần Thảo N (vợ T đã ly hôn);

- 02 (hai) điện thoại di động đã qua sử dụng: 01 điện thoại hiệu Iphone màu trắng đen, có sim số 0918.230402 01 cái hiệu BML-6700 với sim số 0943.356378.

- 01 (một) xe Honda hiệu Attila biển số 69K1-003.17 do Đặng Quang T điều khiển chở N và con đi cùng.

Tại kết luận giám định số 215/C54B ngày 27 tháng 12 năm 2016 của Tổng cục cảnh sát, Phân viện Kỹ thuật hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói ký hiệu H1/2016: có 102 viên nén tròn, màu trắng, có logo chữ B được niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng là: 29,4195 gam, có MDMA.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 22, Nghị Định 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ.

- Gói ký hiệu H2/2016: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng là: 9,8974 gam, đều có Ketamine.

- Gói ký hiệu H3/2016: Tinh thể màu trắng đựng trong 04 gói nilon được niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng là: 1,4283 gam, đều có Ketamine.

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định: mẫu vật sau khi trích giám định được niêm phong trong các gói ký hiệu 215, có trọng lượng gồm: gói ký hiệu 215/1: 15,0733 gam; gói ký hiệu 215/2: 9,1035 gam; gói ký hiệu 215/3: 1,0232 gam.

Căn cứ kết luận giám định, sự thừa nhận và ý thức của bị cáo T mua ma túy (nhiều lần) của người tên N ở Tp.Hồ Chí Minh vào ngày 24/12/2016 đã gửi về cho bị cáo T nhận có trọng lượng là 40,7452 gam (trong đó loại ma túy MDMA 29,4195 gam và loại ma túy Ketamine 11,3257 gam).

Tại phiên tòa bị cáo Đặng Quang T khai nhận: Vào khoảng giữa năm 2016, bị cáo T Tp.Hồ Chí Minh quen với người tên P (không biết rõ họ tên và địa chỉ), P giới thiệu cho bị cáo T quen biết một người phụ nữ tên N (không biết rõ tên họ và địa chỉ cụ thể, ở Tp.Hồ Chí Minh) có bán ma túy dạng thuốc lắc để mua sử dụng. Bị cáo T khai nhận trong khoảng thời gian ở Tp.Hồ Chí Minh đã liên hệ với N mua ma túy (loại MDMA) dạng thuốc lắc sử dụng khoảng 05 lần, mỗi lần từ 01 đến 02 viên, mỗi viên với giá 260.000 đồng.

Đến khoảng tháng 11/2016 khi bị cáo T về Mau sinh sống và sử dụng số điện thoại 0943.356.378 có liên hệ với N là người đã bán ma túy cho bị cáo trước đây ở Tp.Hồ Chí Minh qua số điện thoại di động 0937.386.448 để đặt mua ma túy với số lượng 100 viên loại MDMA (dạng thuốc lắc) giá 200.000đ/viên bằng 20.000.000đ. Sau đó, N gửi ma túy về Mau bằng xe khách (qua trạm xe Vận Tải Sài Gòn tại phường 6, Tp.Cà Mau) cho bị cáo T nhận. Sau khi nhận được ma túy, T mang về nhà kiểm tra số lượng đủ 100 viên, đến ngày hôm sau T liên hệ với N để chuyển tiền trả thì được N kêu một người thanh niên (không rõ tên họ) đến Ngân hàng Vietcombank Mau để nhận tiền của bị cáo T và chuyển tiền cho N, nên bị cáo không biết được số tài khoản của N. Đối với việc bị cáo chuyển tiền nhiều lần cho Thạch Thụy Thảo N do bị cáo đặt hàng mua quần áo và điện thoại qua mạng để bán nên có chuyển tiền trả (cùng bán điện thoại với Trần Cẩm T tại tiệm điện thoại Như Ngọc ở phường 8, Tp.Cà Mau), không phải trả tiền mua ma túy.

Sau khi nhận được ma túy (thuốc lắc) của N gửi về, bị cáo vừa sử dụng và vừa bán lại cho các đối tượng quen biết gồm: N, Ng, T, M, T (Cu Bi), những người này trả tiền cho T mỗi viên giá 200.000 đồng (thường mang vào quán bar Gossip thuộc phường 5, Tp.Cà Mau), thời gian khoản 01 tháng bị cáo T đã tiêu thụ hết lượng ma túy đã nhận, riêng Trần Cam T (bạn gái T) thì bị cáo cho ma túy sử dụng không lấy tiền.

Đối với các đối tượng mà bị cáo T khai nhận đã có bán và sử dụng chung ma túy như: N, Ng, T, M, T (Cu Bi), T, trong quá trình điều tra đều thừa nhận có mua ma túy MDMA (dạng thuốc lắc) của bị cáo T và sử dụng nhiều lần tại quán bar Gossip thuộc phường 5, Tp.Cà Mau, cụ thể như sau:

- Chị Lê Trần Kim N, sinh năm 1988, trú tại Nguyễn Tất Thành, khóm 7, phường 8, thành phố Mau (Vợ T) khai nhận: Bản thân N không trực tiếp mua ma túy của bị cáo T mà khi đi cùng Th vào Vũ trường Gossip chơi thì Th mua ma túy (thuốc lắc) của bị cáo T cho N sử dụng. Sử dụng 04 lần, mỗi lần nửa viên từ ngày 10/12/2016 đến 21/12/2016. Khi đến vũ trường thì Th điện thoại cho bị cáo T đến để mua sử dụng giá mỗi viên 200.000 đồng (bút lục 231, 232, 233, 234, 313).

- Chị Trương Nhật Ng, sinh năm 1994, trú tại khóm 2, phường 1, thành phố Cà Mau khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy (thuốc lắc) chung với T, M, N, Th tại Vũ trường Gossip, bản thân không trực tiếp mua ma túy của bị cáo T Th T mua ma túy của T rồi cho sử dụng, vì đi chơi chung nên biết bị cáo T bán ma túy (thuốc lắc) mỗi viên giá 200.000 đồng, Ng sử dụng 02 lần vào ngày 15 16/12/2016 (bút lục 223, 224).

- Anh Đoàn Thanh T, sinh năm 1985, trú tại ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm, Tp.Cà Mau khai nhận: Th liên hệ với bị cáo T đến vũ trường Gossip trực tiếp đưa ma túy cho T và trực tiếp lấy tiền cùng những người khác. T mua ma túy (thuốc lắc) của bị cáo T 03 lần, mỗi lần 01 viên giá 200.000 đồng (T trả tiền thay cho Ng 02 viên), thời điểm là trong tháng 12/2016 bằng 600.000đ (bút lục 217 đến 220).

- Anh Trương Phát M, sinh năm 1997, trú tại Lý Văn Lâm, phường 1, Tp.Cà Mau khai nhận: M và bị cáo T là bạn bè chơi chung nhóm còn có Th, T, N, Ng. Khi nhóm bạn ai sử dụng thì trả cho bị cáo T mỗi viên giá 200.000 đồng. Bị cáo T trực tiếp đưa ma túy và lấy tiền tại quán bar Gossip phường 5, Tp.Cà Mau. Bản thân M mua ma túy (thuốc lắc) của bị cáo T 02 lần (Lần thứ nhất là ngày 15/2/2016, lần thứ hai là ngày 21/12/2016), mỗi lần 01 viên giá 200.000 đồng bằng tiền là 400.000đ (bút lục 227, 228).

- Anh Lâm Quốc Th (Cu Bi), sinh năm 1991, trú tại khóm 7, phường 8, Tp.Cà Mau khai nhận: Khi vào quán bar Gossip phường 5, Tp.Cà Mau, Th liên hệ trực tiếp với bị cáo T để mua ma túy tổng cộng là 04 lần, mỗi lần 01 viên giá 200.000 đồng thành tiền 800.000đ (lần đầu là ngày 10/12/2016, lần cuối ngày 21/12/2016), trong nhóm ai sử dụng thì trực tiếp đưa tiền cho T, riêng Lê Trần Kim N là vợ Th thì Th trả tiền cho Ng (bút lục 221, 222, 225, 226, 314).

- Chị Trần Cẩm T, sinh năm 1993, trú tại khóm 1, phường 8, Tp.Cà Mau khai nhận: Bản thân có sử dụng ma túy cùng bị cáo T, Th, Ng, M, T, trước đây T mua ma túy của Vưu Kim P, nhưng sau khi P bị bắt thì bị cáo T cho ma túy (thuốc lắc) để sử dụng. Ma túy ở đâu T có thì T không biết (bút lục 229, 230).

Đến ngày 23/12/2016, bị cáo T gọi điện thoại từ số 0943.356.378 cho N ở Tp.Hồ Chí Minh số điện thoại 0937.386448 để đặt mua tiếp số lượng ma túy là 100 viên (dạng thuốc lắc) giá 200.000đ/viên, bằng 20.000.000 đồng và đặt mua thêm 01 bịch ma túy dạng bột màu trắng (tên thường gọi của người sử dụng là Khây) với giá tiền là 10.000.000 đồng, nhằm mục đích sử dụng và bán lại cho các đối tượng quen biết. Sau khi trao đổi N đồng ý bán theo yêu cầu của bị cáo T.

Đến khoảng 15 giờ ngày 24/12/2016, N gọi điện thoại báo cho bị cáo T biết là N đã gửi ma túy về Mau bằng xe khách Tuấn Hưng và ghi số điện thoại người nhận là 0918.230.402 (là số điện thoại của bị cáo T sử dụng), và thông báo cho bị cáo T biết là khoảng 20 giờ xe về tới Cà Mau, liên hệ trạm xe để nhận ma túy.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày 24/12/2016, bị cáo T điều khiển xe Attila biển số 69K1-003.17 chở vợ con đi chơi noel (vợ là Trần Thảo N đã ly hôn, con Đặng Quang T 16 tháng tuổi), khi đến Trạm xe khách Tuấn Hưng tại địa chỉ số 119, đường Lý Thương Kiệt, khóm 4, phường 6, Tp.Cà Mau đậu xe phía ngoài cho chị N trông xe, bị cáo vào bên trong trạm xe để nhận gói hàng (là ma túy do N gửi từ Tp.Hồ Chí Minh về), vừa nhận xong thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng tang vật.

Ngày 10/01/2017, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cà Mau đã trả cho Trần Thảo N: Xe mô tô Attila biển số 69K1-003.17 01 điện thoại di động hiệu OPPO cùng sim 01297514515.

Ngày 19/3/2017, Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trả cho Trần Cẩm T: 01 CMND tên Trần Cẩm T, số CMND 381683926.

Ngày 04/4/2017, Cơ quan điều tra Công an thành phố Mau đã giao cho Đặng Chí Th (cha ruột bị cáo): 01 giấy CMND 01 giấy phép lái xe mang tên Đặng Quang T; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe 69L1-050.57 mang tên Vũ Minh H.

Tất cả các tang vật, tài sản còn lại gồm: Mẫu vật sau giám định vụ số 215/C54B ngày 27/12/2016 của Phân viện kỹ thuật hình sự Tp.Hồ Chí Minh (ký hiệu H1/2016, H2/2016, H3/2016); 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen sim số 0918.230402; 01 (Một) điện thoại di động hiệu BML-6700C sim số 0943.356378; 01 (Một) bóp da màu đen; 01 (Một) cái áo khoác màu xám đen và 86 bịch nylon nhỏ không chứa đựng; Tiền Việt Nam: 31.500.000 đồng. Hiện các vật chứng trên do Chi cục Thi hành dân sự Tp.Cà Mau đang quản lý.

Đối với người phụ nữ tên N, người tên P Tp.Hồ Chí Minh và người thanh niên trong vũ trường Gossip ở Cà Mau: Hiện không rõ tên họ và địa chỉ cụ thể nên chưa tiến hành làm việc được. Nên tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng ma túy của Th, T, Ng, M, N, T cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã chuyển hồ sơ về địa phương để xử lý theo quy định pháp luật.

Tại cáo trạng số: 116/KSĐT-TA ngày 02/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Đặng Quang T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 khoản 2 điểm b, m của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ý kiến của Kiểm sát viên giữ nguyên cáo trạng số: 116/KSĐT- TA ngày 02/6/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Đặng Quang T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 khoản 2 điểm b, m của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 194 khoản 2 điểm b, m; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ Luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Quang T từ 07 năm đến 08 năm tù. Vvật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy các mẫu vật hoàn lại sau khi trích giám định và 01 (Một) cái áo khoác màu xám đen và 86 bịch nilon nhỏ không chứa đựng; Tịch thu sung quỹ đối với 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen sim số 0918.230402; 01 (Một) điện thoại di động hiệu BML-6700C sim số 0943.356378; Trả lại cho bị cáo: 31.500.000 đồng tiền Việt Nam 01 (Một) bóp da màu đen. Hiện các vật chứng trên do Chi cục Thi hành dân sự Tp.Cà Mau đang quản lý.

Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Lê Trần Kim N, Trương Nhật Ng, Đoàn Thanh T, Trương Phát M, Lâm Quốc Th, Trần Cẩm T, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng N, Ng, T, M, Th, T đã có đơn xin vắng mặt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người có liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như cáo trạng của viện kiểm sát truy tố, xác định không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; đối chiếu các tài liệu, lời khai nhận của những người có liên quan và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện:

Vào khoảng giữa năm 2016, khi bị cáo T Tp.Hồ Chí Minh có liên hệ với N mua ma túy (loại MDMA) dạng thuốc lắc sử dụng khoảng 05 lần, mỗi lần từ 01 đến 02 viên, mỗi viên với giá 260.000 đồng. Đến khoảng tháng 11/2016 đến tháng 12/2016 bị cáo T xác định đã mua ma túy của người tên N Tp.Hồ Chí Minh số lượng 100 viên ma túy loại MDMA (dạng thuốc lắc) về sử dụng và bán nhiều lần cho các đối tượng gồm: Lâm Quốc Th (04 lần 04 viên), Đoàn Thanh T (03 lần 03 viên), Trương Phát M (02 lần 02 viên), Trần Kim N (04 lần 04 viên), Trương Nhật Ng (02 lần 02 viên) tại quán bar Gossip thuộc phường 5, thành phố Cà Mau nhằm mục đích thu lợi với số tiền 3.000.000 đồng. Lần cuối trước khi bị bắt: Vào lúc 21 giờ ngày 24/12/2016, Lực lượng phòng cảnh sát điều tra về tội phạm Công an tỉnh Cà Mau kết hợp với Công an phường 6, Tp.Cà Mau kiểm tra, bắt quả tang Đặng Quang T mua và đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại “Trạm xe khách Tuấn Hưng” địa chỉ số 119, đường Lý Thương Kiệt, khóm 4, phường 6, thành phố Mau với trọng lượng là 40,7452 gam (trong đó loại ma túy MDMA 29,4195 gam và loại ma túy Ketamine 11,3257 gam) nhằm mục đích sử dụng và bán lại cho các đối tượng quen biết. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác đã thu thập được, bị cáo đồng ý với trọng lượng ma túy theo kết quả giám định.

Hành vi mua, tàng trữ chất ma túy của bị cáo nhằm mục đích sử dụng và bán trái phép đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức và biết được tác hại của ma túy nhưng vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, trọng lượng ma túy bị cáo mua và tàng trữ với mục đích sử dụng và bán lại, theo kết luận giám định có tổng trọng lượng là 40,7452 gam dạng tinh thể rắn gồm chất MDMA và chất Ketamine. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 khoản 2 điểm b, m của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi tàng trữ, mua bán ma túy của bị cáo T là rất nguy hiểm. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân của bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhưng hành vi phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Do đó, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm, phải có mức hình phạt tương xứng để có thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích và nhằm để răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo, gia đình của bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 2.000.000đ là khoản tiền bị cáo bán ma túy nhằm thu lợi, nên Hội đồng xét xử có xem xét đến tình tiết trên là tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với tang vật thu giữ trong vụ án: Trong quá trình điều tra truy tố đã giao trả một phần vật chứng cho các chủ sở hữu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Còn lại các vật chứng được xử lý như sau:

Đối với mẫu vật hoàn lại sau khi trích giám định số 215/C54B ngày 27/12/2016 (ký hiệu H1/2016, H2/2016, H3/2016) là ma túy và 01 (Một) bóp da màu đen, 01 (Một) cái áo khoác màu xám đen và 86 bịch nylon nhỏ không chứa đựng của bị cáo T (do giá trị sử dụng không lớn), cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen cùng sim số 0918.230402 01 (Một) điện thoại di động hiệu BML-6700C cùng sim số 0943.356378 của bị cáo, bị cáo xác định dùng để liên lạc mua bán ma túy và tự nguyện nộp, nên tịch thu (do tài sản có giá trị nên phát mãi) sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền bị cáo bán ma túy để thu lợi, tại phiên tòa bị cáo xác định có bán ma túy cho các đối tượng gồm: Th 04 lần và N 04 lần được 08 viên (Th trả tiền cho N 04 viên) số tiền 1.600.000đ; T 03 lần và Ng 02 lần được 05 viên (T trả tiền cho Ng 02 viên) số tiền 1.000.000đ; M 02 lần được 02 viên số tiền 400.000đ. Vậy tổng số tiền bị cáo thu từ việc bán ma túy là 3.000.000đ, bị cáo tự nguyện truy nộp sung quỹ nhà nước. Xét thấy đây là khoản tiền thu lợi từ việc bán ma túy, bị cáo đã tự nguyện nộp nên chấp nhận cho bị cáo T truy nộp số tiền 3.000.000đ để sung quỹ nhà nước. Ngày 07/8/2017 gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền là 2.000.000đ, nên bị cáo phải tiếp tục nộp thêm số tiền là 1.000.000đ.

Trả lại cho bị cáo T số tiền 31.500.000đ (VNĐ) là tiền cá nhân của bị cáo, nhưng tiếp tục duy trì quản lý để đảm bảo cho việc thi hành án. Trường hợp còn thừa thì hoàn trả cho bị cáo.

Hiện các vật chứng trên do Chi cục Thi hành dân sự Tp.Cà Mau đang quản lý.

Đối với người phụ nữ tên N, người tên P Tp.Hồ Chí Minh và người thanh niên trong quán bar Gossip thuộc phường 5, Tp.Cà Mau: Hiện không rõ tên họ và địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra chưa tiến hành làm việc được. Tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng ma túy của Lâm Quốc Th, Đoàn Thanh T, Trương Nhật Ng, Trương Phát M, Lê Trần Kim N, Trần Cẩm T, Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã chuyển hồ sơ về địa phương để xử lý theo quy định pháp luật, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý trong vụ án này.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Đặng Quang T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b, m khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Quang T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 25/12/2016.

2. Căn cứ Điều 76, 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 41, 42 Bộ luật hình sự:

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau khi trích giám định số 215/C54B ngày 27/12/2016 (ký hiệu H1/2016, H2/2016, H3/2016) 01 (Một) bóp da màu đen, 01 (Một) cái áo khoác màu xám đen và 86 bịch nylon nhỏ không chứa đựng của bị cáo T.

Tịch thu phát mãi sung quỹ nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng đen cùng sim số 0918.230402 và 01 (Một) điện thoại di động hiệu BML-6700C cùng sim số 0943.356378 của bị cáo T.

Buộc bị cáo T tiếp tục truy nộp số tiền 1.000.000đ là số tiền bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy.

Trả lại cho bị cáo T số tiền 31.500.000đ (VNĐ) là tiền cá nhân của bị cáo, nhưng tiếp tục duy trì quản lý để đảm bảo cho việc thi hành án. Trường hợp còn thừa thì hoàn trả cho bị cáo.

Hiện các vật chứng trên do Chi cục Thi hành dân sự Tp.Cà Mau đang quản lý.

3. Áp dụng Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Đặng Quang T phải nộp 200.000 đồng (chưa nộp).

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2017/HSST ngày 08/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:137/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về