Bản án 136/2020/HS-PT ngày 12/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂNTỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 136/2020/HS-PT NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 37/2020/TLPT-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Vũ Xuân C, do có kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2019/HSST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo có kháng cáo: Vũ Xuân C, sinh năm 1967 tại xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: thôn 3, xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T (đã chết) và bà Lê Thị M, sinh năm 1939; có vợ là Vũ Thị H, sinh năm 1972 và 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Ngưi bị hại: ông Lê Văn Ch sinh năm 1946, vắng mặt

Địa chỉ: Thôn 3, xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Bà Phạm Thị Ch, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt

Người bào chữa cho bị cáo là Bà Nguyễn Thị Th - Luật sư Văn phòng luật sư Nguyễn Th, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước, nên khoảng 07 giờ ngày 03/7/2019, chị Vũ Thị H (vợ bị cáo C) đi làm qua cổng nhà ông Lê Văn Ch thì xảy ra việc cãi vả giữa chị H và bà Nguyễn Thị T (vợ ông Ch). Khi đó chị Lê Thị Thanh B (con gái ông Ch và bà T) đã lấy con dao (dạng dao phay) chạy ra gây thương tích cho chị H. Khi nghe tiếng bà H hô la, Vũ Xuân C từ trong nhà chạy ra, thấy vợ bị thương nên lấy gạch dưới chân tường nhà ông Ch ném về phía bà T và chị B. Ông Lê Văn Ch từ trong nhà đi ra thì bị C dùng một viên gạch (gạch bằng đất nung) ném trúng vào vùng đầu ông Ch, làm ông Ch bị thương. Sau đó mọi người can ngăn, bị cáo C đi về nhà, còn ông Ch được gia đình đưa đi sơ cứu điều trị vết thương.

Ti biên bản xem xét dấu vết thân thể hồi 07 giờ 15’ ngày 03/7/2019 tại Trạm Y tế xã Tr, huyện H, ông Lê Văn Ch bị vết thương: Tại vùng chẩm trái có vết thương rách da có kích thước dài 03cm, rộng 0,3cm sâu khoảng 0,5cm bờ vết thương nham nhở, xung quanh vết thương sưng nề đang chảy máu.

Sau khi sơ cứu khám thương tại Trạm Y tế xã Tr, ông Ch được chuyển đến Bệnh viện đa khoa Hợp Lực để điều trị từ ngày 03/7/2019 đến ngày 23/7/2019 xuất viện.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 456/2019/TTYT ngày 13/8/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với ông Ch được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 07%.

Sau khi có kết luận giám định, do vết thương tái phát nên ông Ch được gia đình đưa đến Bệnh viện đa khoa Hàm Rồng điều trị từ ngày 20/9/2019 đến ngày 27/9/2019.

Ny 26/7/2019, ông Lê Văn Ch có đơn gửi Cơ quan CSĐT Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa đề nghị xử lý hình sự đối với Vũ Xuân C.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Ch yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho ông các khoản chi phí phát sinh từ việc điều trị thương tích do bị cáo C gây ra, cụ thể:

1. Chi phí điều trị và tiền thuốc tại Trạm Y tế xã, Bệnh viện Hợp Lực, Bệnh viện Hàm Rồng, tổng là 17.723.000đ.

2. Tiền thuê xe đi và về:

Đi và về Bệnh viện Hợp Lực: 200.000đ/lưt x 02 lượt = 400.000đ (kng có hóa đơn) Đi và về Bệnh viện Hàm Rồng: 150.000đ/lưt x 02 lượt = 300.000đ (kng có hóa đơn)

 3. Công người chăm sóc (con trai ông là Lê Ngọc Ng chăm ông): 300.000đ/ngày x 29 ngày = 8.700.000đ 

4. Tiền ăn, sinh hoạt cho các ngày nằm viện: 200.000đ x 29 ngày = 5.800.000đ.

5. Tiền bồi thường tổn thất tinh thần: 15 tháng lương x 1.490.000đ/tháng = 22.350.000đ.

Ti phiên tòa, người bị hại đề nghị bồi thường thêm khoản tiền:

6. Tiền thuốc bổ não và thuốc thần kinh = 9.000.000đ 7. Tiền ăn thêm và sữa các loại = 7.000.000đ.

Tổng số tiền người bị hại yêu cầu bị cáo C bồi thường là 71.273.000đ(By mươi mốt triệu hai trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

Ti phiên tòa bị cáo không đồng ý mức thu nhập của anh Ng là 300.000đ/ngày, bị cáo và anh Ng thống nhất chấp nhận mức thu nhập của anh Ng là 200.000đ/ngày.

- Bản án số 101/2019/HSST ngày 26 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa:

Căn cứ: Khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Xuân C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Xuân C 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự 2015, buộc bị cáo Vũ Xuân C phải bồi thường cho ông Lê Văn Ch số tiền 36.378.500đ (Ba mươi sáu triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn năm trăm đồng). Tiếp tục quy trữ số tiền 20.000.000đ đồng bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa theo biên lai thu số AA/2015/0000981 ngày 25/11/2019 để đảm bảo thi hành án cho bị cáo C.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử lý vật chứng, tuyên án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.

- Ngày 27/12/2019, bị cáo Vũ Xuân C kháng cáo xin được hưởng án treo.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Vũ Xuân C giữ nguyên nội dung kháng cáo xin hưởng án treo.

- Người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng; nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do vợ bị cáo bị vợ và con của bị hại tấn công, dùng dao gây thương tích (hiện nay Công an huyện Hoằng Hóa đang thụ lý giải quyết), nên bị cáo mới có hành động ném gạch về phía gia đình ông Ch; hành vi phạm tội của bị cáo là nhất thời; bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại về dân sự cho ông Ch, chính quyền địa phương xác nhận bị cáo luôn chấp hành đầy đủ nghĩa vụ công dân, có nhân thân tốt; sức khỏe của bị cáo hiện nay không được tốt. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc giữ nguyên mức hình phạt tù của cấp sơ thẩm nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn xác nhận của chính quyền địa phương xác nhận bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân; bị cáo thực sự ăn năn hối cải, đã tự nguyện nộp số tiền còn phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quyết định của của Bản án sơ thẩm. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm: giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo bị cáo làm trong thời hạn luật định, tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo

- Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình thể như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 03/7/2019, khi nghe tiếng chị Vũ Thị H (vợ bị cáo C) hô bị Nguyễn Thị T (vợ ông Ch) và chị Lê Thị Thanh B (con gái ông Ch) gây thương tích thì bị cáo C đã chạy từ trong nhà ra ném gạch (loại gạch nung từ đất) về phía ông Lê Văn Ch, làm ông Ch bị thương vào vùng đầu với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 07%. Ngày 26/7/2019, ông Lê Văn Ch đã làm đơn yêu cầu cơ qua Công an và Viện kiểm sát huyện Hoằng Hóa xử lý hình sự đối với Vũ Xuân C.

Vi hành vi trên, Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa đã xét xử bị cáo C về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

- Xét kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt 06 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm những tình tiết giảm nhẹ mới đó là: Chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú xác nhận bị cáo luôn chấp hành tốt nội quy quy ước, không có tiến án tiền sự; Bị cáo thực sự ăn năn hối cải, tự nguyện nộp toàn bộ số tiền phải bồi thường còn lại theo quyết định của Bản án sơ thẩm với số tiền 16.378.500đ ti Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa theo Biên lại số AA/2015/0000995 ngày 11/3/2020. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới tại giai đoạn phúc thẩm quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và 2 Điều 51 và có 01 tình tiết tặng nặng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự (phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên); bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt; xét thấy không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ điều kiện bị cáo tự cải tạo và không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và cũng phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.

[3] Về bồi thường dân sự: Bị cáo C đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền còn phải bồi thường cho ông Ch tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa, theo quyết định của bản án sơ thẩm là 16.378.500đ.

[4] Về án phí: Vì bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phải bồi thường cho ông Ch theo quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Vũ Xuân C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm vì kháng cáo của bị cáo được chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

* Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân C; Sửa bản án số 101/2019/HSST ngày 26 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Xuân C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Xuân C 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Vũ Xuân C cho UBND xã Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Về bồi thường dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự 2015, buộc bị cáo Vũ Xuân C phải bồi thường cho ông Lê Văn Ch số tiền 36.378.500đ (Ba mươi sáu triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn năm trăm đồng). Số tiền này bị cáo C đã tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa theo biên lai thu số AA/2015/0000981 ngày 25/11/2019 và biên lai thu số AA/2015/0000995 ngày 11/3/2020 để đảm bảo thi hành án cho bị cáo C. Ông Lê Văn Ch có quyền liên hệ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa để yêu cầu thi hành khoản bồi thường dân sự 36.378.500đ nói trên.

* Án phí: Bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

* Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

* Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2020/HS-PT ngày 12/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:136/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về