Bản án 136/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 136/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 186/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3613/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Công H; nơi cư trú: Cộng hòa Liên bang Đức; tạm trú: số 17/13 đường LT, phường LT, quận NQ, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Hải Y; nơi cư trú: Cộng hòa Liên bang Đức, váng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện nguyên đơn là anh Nguyễn Công H trình bày: Anh và chị Nguyễn Hải Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 9 năm 2003. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Cộng hòa Liên bang Đức. Quá trình chung sống được 13 năm thì giữa anh và chị Y bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng trong quan điểm sống, anh là trụ cột chính trong gia đình, bản thân anh còn mẹ già ốm yếu đang ở Việt Nam cần có người chăm sóc, trước đây khi anh đề nghị về Việt Nam sinh sống chị Y đồng ý nhưng nay chị Y không muốn quay về Việt Nam để sinh sống cùng với anh. Nay bản thân anh xác định tình cảm vợ chồng không còn anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Hải Y.

Về nuôi con: Anh và chị Nguyễn Hải Y có con 02 con chung là Nguyễn Công Hoàng H, sinh ngày 29 tháng 01 năm 2000 và cháu Nguyễn Ngọc Minh Ch, sinh ngày 25 tháng 11 năm 2005. Khi ly hôn anh chị thống nhất giao con chung là Nguyễn Công Hoàng H cho chị Nguyễn Hải Y nuôi dưỡng và giao con Nguyễn Ngọc Minh Ch cho anh Nguyễn Công H nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Anh và chị Nguyễn Hải Y không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị Nguyễn Hải Y trình bày: Thống nhất với anh Nguyễn Công H về quá trình kết hôn cũng như nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, cả hai cũng đã cố gắng hòa giải nhiều lần nhưng không được. Nay chị xét tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ là không thể nên chị cũng đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Công H.

Về nuôi con và chia tài sản chung: Chị thống nhất với quan điểm của anh Nguyễn Công H.

Do chị Nguyễn Hải Y đang ở nước ngoài và không yêu cầu hòa giải nên căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải.

Tại phiên tòa, cả anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y cùng có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Sơ Tư pháp thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 9 năm 2003, theo quy định tại Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Nguyễn Hải Y hiện đang cư trú ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Nguyễn Hải Y đang ở nước ngoài, tài liệu của chị gửi về đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức chứng thực chữ ký. Chị Nguyễn Hải Y có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt đồng thời ủy quyền cho người nhà nhận văn bản tố tụng của Tòa án cho chị. Anh Nguyễn Công H đã nhận tống đạt trực tiếp Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa do có công việc đột xuất. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y.

[3] Về hôn nhân:

[3.1] Căn cứ vào lời khai của các đương sự có cơ sở xác định: Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng của anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y hạnh phúc được khoảng 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên không thống nhất được nơi ở của cả gia đình, anh Nguyễn Công H muốn trở về Việt Nam còn chị Nguyễn Hải Y muốn ở lại Cộng Hòa Liên bang Đức. Bản thân anh chị cũng cố gắng khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn kéo dài, cả anh Nguyên Công H và chị Nguyễn Hải Y đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và cùng đề nghị ly hôn, như vậy việc xin ly hôn của anh chị là hoàn toàn chính đáng.

[3.2] Xét, quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y không còn yêu thương nhau, ai chỉ biết bổn phận của người đó, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận đề nghị xin ly hôn của anh Nguyễn Công H.

[4] Về nuôi con: Anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y thống nhất giao con chung là Nguyễn Công Hoàng H sinh ngày 29 tháng 01 năm 2000 cho chị Nguyễn Hải Y nuôi dưỡng và giao con Nguyễn Ngọc Minh Ch sinh ngày 25 tháng 11 năm 2005 cho anh Nguyễn Công H nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét, việc thỏa thuận nuôi con của anh chị là phù hợp với quy định của pháp luật và cũng thống nhất với nguyện vọng của các con. Do vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận thỏa thuận về nuôi con của anh Nguyễn Công H, chị Nguyễn Hải Y. Về cấp dưỡng nuôi con hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về chia tài sản: Anh Nguyễn Công H, chị Nguyễn Hải Y khai thống nhất không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh Nguyễn Công H là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Công H được ly hôn với chị Nguyễn Hải Y.

2. Về nuôi con: Giao cho chị Nguyễn Hải Y trực tiếp nuôi con Nguyễn Công Hoàng H, sinh ngày 29 tháng 01 năm 2000; giao cho anh Nguyễn Công H trực tiếp nuôi con Nguyễn Ngọc Minh Ch, sinh ngày 25 tháng 11 năm 2005 cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về chia tài sản: Anh Nguyễn Công H và chị Nguyễn Hải Y không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Công H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0010907 ngày 17 tháng 10 năm 2018 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Anh Nguyễn Công H đã nộp đủ.

5. Về quyền kháng cáo của các đương sự:

Anh Nguyễn Công H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Chị Nguyễn Hải Y được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:136/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về