Bản án 135/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 135/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số 124/2020/HSST ngày 02 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Thị T ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ, sinh ngày 10/12/1983; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm V Tr, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 12/12;Họ tên cha: Phan Đức Th (đã chết);Họ tên mẹ: Ngô Thị B, sinh năm 1942;Anh chị em ruột: Có 06 anh chị em (bị cáo là con thứ sáu trong gia đình);Họ tên chồng: Hoàng Đình T, sinh năm 1979;Có 03 người con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013;Tiền án, tiền sự: Không;Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/07/2020 đến ngày 09/08/2020.

2. Họ và tên: Phạm Thanh T ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 17/12/1968; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm N L , xã Đ Th , huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 07/10;Họ tên cha: Phạm Thanh V (đã chết);Họ tên mẹ: Cao Thị T, sinh năm 1936;Anh chị em ruột: Có 07 anh chị em (bị cáo là con thứ năm trong gia đình);Họ tên vợ: Đặng Thị T, sinh năm 1971;Có 02 người con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2014;Tiền án, tiền sự: Không:

Nhân T : Ngày 30/10/2017, C an huyện Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 53 ngày 30/10/2017, đã chấp hành xong quyết định ngày 03/11/2017.Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/08/2020 đến ngày 10/08/2020.

3. Họ và tên: Lê Xuân T ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 22/12/1958; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm 4, xã Xuân Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 07/10;Họ tên cha: Lê Xuân Kh (đã chết);Họ tên mẹ: Doãn Thị H (đã chết); Anh chị em ruột: Có 05 anh chị em (bị cáo là con thứ tư trong gia đình);Họ tên vợ: Trương Thị Ng, sinh năm 1962;Có 03 người con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1992; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 28/02/2020, bị C an huyện Y, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 43 ngày 28/02/2020, đã chấp hành xong. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/08/2020 đến ngày 06/08/20204.

4. Họ và tên: Nguyễn Văn T ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 22/01/1988; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm Đ Y, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12;Họ tên cha: Nguyễn Hữu Đề, sinh năm 1950;Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1952; Anh chị em ruột: Có 03 anh chị em (bị cáo là con thứ ba trong gia đình);Họ tên vợ: Hoàng Thị T, sinh năm 1986;Có 03 người con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016;Tiền án, tiền sự: Không;bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/08/2020 đến ngày 30/10/2020, hiện đang có mặt tại địa phương.

5. Họ và tên: Mai Đình H ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 20/04/1984; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm Ph Th, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 12/12;Họ tên cha: Mai Đức Tú, sinh năm 1956;Họ tên mẹ: Trần Thị V, sinh năm 1956; Trú tại xóm Ph Th, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Anh chị em ruột: Có 03 anh chị em (bị cáo là con thứ hai trong gia đình);Họ tên vợ: Hoàng Thị Hằng, sinh năm 1986;Có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014;Đều trú tại xóm Ph Th, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Tiền án, tiền sự: Không;Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/08/2020 đến ngày 10/08/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/08/2020 đến ngày 30/10/2020, hiện đang có mặt tại địa phương.

6. Họ và tên: Đặng Hữu L ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 24/01/1992; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm H L, xã Nh Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 09/12;Họ tên cha: Đặng Hồng Bảo, sinh năm 1942;Họ tên mẹ: Hoàng Thị T, sinh năm 1942; Đều trú tại xóm H L, xã Nh Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Anh chị em ruột: Có 07 anh chị em (bị cáo là con thứ bảy trong gia đình);Họ tên vợ: Đoàn Thị H, sinh năm 1992;Có 02 người con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2020;Tiền án, tiền sự: Không;Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/08/2020 đến ngày 10/08/2020.

7. Họ và tên: Thái Duy C ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 13/10/1970; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm V, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 12/12;Họ tên cha: Thái Duy Nh, sinh năm 1937; Trú tại xóm V, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Họ tên mẹ: Nguyễn Thị C (đã chết); Anh chị em ruột: Có 02 chị em (bị cáo là con thứ hai trong gia đình);Họ tên vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1971;Có 03 người con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1997;Tiền án, tiền sự: Không;Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/08/2020 đến ngày 10/08/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

8. Họ và tên: Thái Văn L ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 10/09/1986; Nơi sinh: Huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm V, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12;Họ tên cha: Thái Minh H (đã chết);Họ tên mẹ: Đồng Thị Đ, sinh năm 1958; Trú tại xóm V, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Anh chị em ruột: Có 04 anh chị em (bị cáo là con thứ ba trong gia đình);Họ tên vợ: Đặng Thị L, sinh năm 1990;Có 02 người con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020;Đều trú tại xóm V, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Tiền án, tiền sự: Không;Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/08/2020 đến ngày 10/08/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Các bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 07/2020 đến ngày 31/07/2020, Phan Thị T, sinh năm 1983, trú tại xóm V Tr, xã L Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An đã tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh số lô, số đề cùng với Thái Duy C, sinh năm 1970; Thái Văn L , sinh năm 1986; Mai Đình H, sinh năm 1984; Lê Xuân T, sinh năm 1958; Phạm Thanh T, sinh năm 1968; Đặng Hữu L, sinh năm 1992; Nguyễn Văn T, sinh năm 1988; Hoàng Đình Nhiên, sinh năm 1952; Trần Văn Thể, sinh năm 1971; Nguyễn Đình Tài, sinh năm 1972 và Hoàng Đình Bảo, sinh năm 1965.

Phan Thị T là chủ lô, đề đã thống nhất với các đối tượng đánh bạc bằng hình thức lô đề là căn cứ vào kết quả xổ số kiến T miền Bắc mở thưởng hàng ngày để xem kết quả và quy ước: Số đề là 02 số cuối cùng (từ 00 đến 99) của giải đặc biệt. Tỷ L trúng thưởng số đề là “1 ăn 70”, nghĩa là chủ đề phải trả cho người đánh số tiền gấp 70 lần số tiền người đánh đã cá cược. Số lô là 02 số cuối cùng (từ 00 đến 99) của tất cả các giải. Hình thức cá cược số lô tính theo điểm, mỗi điểm lô chủ đề tính tương ứng với số tiền từ 22.000 đồng (Hai mươi hai ngàn đồng) đến 23.000 đồng (Hai mươi ba ngàn đồng). Tỷ L trúng thưởng số lô là cứ mỗi điểm lô trúng thưởng chủ đề phải trả cho người đánh số tiền là 80.000 đồng (Tám mươi ngàn đồng), mỗi số lô có thể trúng thưởng nhiều lần trong ngày mở thưởng. Số lô xiên 2 là cặp gồm 02 (hai) số lô khác nhau. Người đánh trúng thưởng số lô xiên 2 nếu cặp số lô đã dự đoán đồng thời cùng về trong ngày đánh. Tỷ L trúng thưởng số lô xiên 2 là “1 ăn 10”, nghĩa là chủ đề phải trả cho người đánh số tiền gấp 10 lần số tiền người đánh đã cá cược. Số lô xiên 3 là bộ gồm 03 (ba) số lô khác nhau. Người đánh trúng thưởng số lô xiên 3 nếu bộ 03 (ba) số lô đã dự đoán đồng thời cùng về trong ngày đánh. Tỷ L trúng thưởng số lô xiên 3 là “1 ăn 40”, nghĩa là chủ đề phải trả cho người đánh số tiền gấp 40 lần số tiền người đánh đã cá cược.

Việc đánh bạc của các bị cáo được thực hiện cụ thể như sau:

1. Ngày 07 tháng 7 năm 2020:

Vào lúc 17 giờ 35 phút ngày 07/7/2020, Phạm Thanh T sử dụng tài khoản zalo đề tên “T Bách” đăng ký từ số thuê bao 0942682999 nhắn tin đến tài khoản zalo đề tên “Hoangdinhtoanyt” đăng ký từ số thuê bao 0965050309 của Phan Thị T nội dung tin nhắn “Gil 10.28.27.37.66.100.d1c.20.300d”, cụ thể Phạm Thanh T đánh các số lô 10, 28, 27, 37, 66 mỗi số 100 điểm, số lô 20 đánh 300 điểm (tổng 800 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời nội dung “Ok” nghĩa là Phan Thị T đồng ý đánh bạc với Phạm Thanh T bằng hình thức nhận các số lô, số đề trên, số tiền Phạm Thanh T sử dụng để đánh bạc với Phan Thị T vào ngày 07/7/2020 là 18.400.000 đồng (Mười tám triệu bốn trăm ngàn đồng).

Ngày 07/7/2020, Phạm Thanh T trúng thưởng số lô 28 (100 điểm) tương ứng 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), số tiền T và T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 07/7/2020 là: 18.400.000 đồng + 8.000.000 đồng = 26.400.000 đồng (Hai mươi sáu triệu bốn trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên Phạm Thanh T và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

2. Ngày ngày 08 tháng 7 năm 2020:

Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 08/7/2020, Phạm Thanh T tiếp tục nhắn tin đến Phan Thị T nội dung tin nhắn “Gi l 38.78.87.100.1 c”, cụ thể Phạm Thanh T đánh các số lô 38, 78, 87 mỗi số 100 điểm (tổng 300 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời Phạm Thanh T nội dung “Ok”. số tiền Phạm Thanh T sử dụng để đánh các số lô với Phan Thị T vào ngày 08/7/2020 là 6.900.000 đồng (Sáu triệu chín trăm ngàn đồng).

Ngày 08/7/2020, Phạm Thanh T trúng thưởng số lô 38 và số lô 87 (mỗi số 100 điểm) = 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng). Tổng số tiền T và T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau là: 6.900.000 đồng + 16.000.000 đồng = 22.900.000 đồng (Hai mươi hai triệu chín trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên T và T chưa trả cho nhau.

3. Ngày 22 tháng 7 năm 2020:

Vào lúc 17 giờ 50 phút ngày 22/7/2020, Thái Văn L sử dụng tài khoản zalo đề tên “Hoàng Hôn” đăng ký từ số thuê bao 0978378292 nhắn tin đến Phan Thị T các tin nhắn có nội dung “68 180d. 11 80d. 28 86 mc 30d. 34 30d”, “64 50n. x2 41, 67 50n”, “34, 43 mc 50n”, “64 100n”, cụ thể Thái Văn L đánh số lô 68 với số điểm là 180 điểm, số lô 11 đánh 80 điểm, các số lô 28, 86, 34 mỗi số 30 điểm (tổng 350 điểm lô), số đề 64 đánh tổng số tiền là 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng), các số đề 34, 43 mỗi số đánh với số tiền là 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng), số lô xiên 2 (41, 67) đánh với số tiền là 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Thái Văn L nội dung “Ok”, số tiền Thái Văn L sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 22/7/2020 là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). ngày 22/7/2020, Thái Văn L không trúng thưởng số lô, số đề, số lô xiên nào. Số tiền này Thái Văn L chưa trả cho Phan Thị T .

4. Ngày 23 tháng 7 năm 2020:

Vào lúc 17 giờ 32 phút ngày 23/7/2020, Phạm Thanh T tiếp tục nhắn tin Phan Thị T nội dung tin nhắn “Gì lo 28.82.08.100.d.1 c x.3.28.82.08.1 trieu. De.73.74.34.500.1 c lo 34.100.d”, cụ thể Phạm Thanh T đánh các số lô 28, 82, 08, 34 mỗi số 100 điểm (tổng 400 điểm lô), số lô xiên 3 (28, 82, 08) đánh với số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), các số đề 73, 74, 34 mỗi số đánh với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Phạm Thanh T nội dung “Ok”. Số tiền Phạm Thanh T sử dụng để đánh bạc với Phan Thị T vào ngày 23/7/2020 là 11.700.000 đồng (Mười một triệu bảy trăm ngàn đồng), ngày 23/7/2020, Phạm Thanh T không trúng thưởng số lô, số đề, số lô xiên nào.Số tiền này Phạm Thanh T chưa trả cho Phan Thị T .

5. Ngày 24 tháng 7 năm 2020:

- Vào lúc 17 giờ 33 phút ngày 24/7/2020, Lê Xuân T sử dụng số điện thoại 0374606703 nhắn tin đến số điện thoại 0346842896 của Phan Thị T nội dung tin nhắn “32.06.mc.x.50.d.34.x.30.d” nghĩa là Lê Xuân T nhắn tin nội dung tin nhắn đánh bạc bằng hình thức đánh số lô, số đề với Phan Thị T, cụ thể Lê Xuân T đánh các số lô 32, 06 mỗi số 50 điểm, số lô 34 đánh 30 điểm (tổng 130 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời Lê Xuân T nội dung “Ok”. Số tiền Lê Xuân T sử dụng để đánh các số lô với Phan Thị T vào ngày 24/7/2020 là 2.990.000 đồng (Hai triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng). ngày 24/7/2020, Lê Xuân T trúng thưởng số lô 32 (50 điểm) tương ứng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Số tiền Lê Xuân T và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 24/7/2020 là:

2.990.000 đồng + 4.000.000 đồng = 6.990.000 đồng (Sáu triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên Lê Xuân T và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

- Vào lúc 17 giờ 36 phút ngày 24/7/2020, Nguyễn Văn T sử dụng tài khoản zalo đề tên “Nghèo” đăng ký từ số thuê bao 0985802211 nhắn tin đến Phan Thị T nội dung tin nhắn “Lô 76/100đ.05/50đ.50/50đ.đề76=500k.lô20.72/50 đ”, cụ thể Nguyễn Văn T đánh số lô 76 với số điểm là 100 điểm, các số lô 05, 50, 20, 72 mỗi số 50 điểm (tổng 300 điểm lô), số đề 76 đánh với số tiền là 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Nguyễn Văn T nội dung “Ok”. Số tiền Nguyễn Văn T sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 24/7/2020 là 7.100.000 đồng (Bảy triệu một trăm ngàn đồng). ngày 24/7/2020, Nguyễn Văn T trúng thưởng số lô 05 và số lô 72 (mỗi số lô 50 điểm) tương ứng với số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). số tiền Nguyễn Văn T và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 24/7/2020 là: 7.100.000 đồng + 8.000.000 đồng = 15.100.000 đồng (Mười lăm triệu một trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên Nguyễn Văn T và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

- Vào lúc 17 giờ 40 phút ngày 24/7/2020, Phạm Thanh T nhắn tin cho Phan Thị T nội dung tin nhắn “Gì lo 08.28.11.100.d.1c x3.11.08.28.1 trieu. Đe 37.73.500.1 c”, cụ thể Phạm Thanh T đánh các số lô 08, 28, 11 mỗi con 100 điểm (tổng 300 điểm lô), số lô xiên 3 (11, 08, 28) đánh với số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), các số đề 37, 73 mỗi con đánh với số tiền là 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Phạm Thanh T nội dung “Ok”. số tiền Phạm Thanh T sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 24/7/2020 là 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm ngàn đồng ngày 24/7/2020, Phạm Thanh T không trúng thưởng số lô, số đề, số lô xiên nào.số tiền này Phạm Thanh T chưa trả cho Phan Thị T .

6. Ngày 26 tháng 7 năm 2020:

- Vào lúc 17 giờ 47 phút ngày 26/7/2020, Phạm Thanh T nhắn tin cho Phan Thị T nội dung tin nhắn “Gì lo 28.41.14.82.100.d.1c”, cụ thể Phạm Thanh T đánh các số lô 28, 41, 14, 82 mỗi số 100 điểm (tổng 400 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời Phạm Thanh T nội dung “Ok”. số tiền Phạm Thanh T sử dụng để đánh các số lô với Phan Thị T vào ngày 26/7/2020 là 9.200.000 đồng (Chín triệu hai trăm ngàn đồng). ngày 26/7/2020, Phạm Thanh T không trúng thưởng số lô nào.Số tiền đánh bạc trên Phạm Thanh T chưa trả cho Phan Thị T .

- Vào lúc 17 giờ 52 phút ngày 26/7/2020, Nguyễn Văn T sử dụng tài khoản zalo đề tên “Nghèo” đăng ký từ số thuê bao 0985802211 nhắn tin đến Phan Thị T nội dung tin nhắn “lô 14.41.78.87/50”, cụ thể Nguyễn Văn T đánh các số lô 14, 41, 78, 87 mỗi số 50 điểm (tổng 200 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời Nguyễn Văn T nội dung “Ok”. số tiền Nguyễn Văn T sử dụng để đánh các số lô với Phan Thị T vào ngày 26/7/2020 là 4.400.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm ngàn đồng).

ngày 26/7/2020, Nguyễn Văn T trúng thưởng số lô 87 (50 điểm) tương ứng với số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).Số tiền Nguyễn Văn T và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 26/7/2020 là: 4.400.000 đồng + 4.000.000 đồng = 8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên Nguyễn Văn T và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

7. Ngày 28 tháng 7 năm 2020:

Vào lúc 17 giờ 14 phút ngày 28/7/2020, Nguyễn Văn T sử dụng tài khoản zalo đề tên “Nghèo” đăng ký từ số thuê bao 0985802211 nhắn tin Phan Thị T nội dung tin nhắn “lô 78.87/100”, cụ thể Nguyễn Văn T đánh các số lô 78, 87 mỗi số 100 điểm (tổng 200 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời Nguyễn Văn T nội dung “Ok”. Tổng số tiền Nguyễn Văn T sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 28/7/2020 là 4.400.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm ngàn đồng). ngày 28/7/2020, Nguyễn Văn T trúng thưởng số lô 78 (100 điểm) tương ứng với số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). số tiền Nguyễn Văn T và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 28/7/2020 là: 4.400.000 đồng + 8.000.000 đồng = 12.400.000 đồng (Mười hai triệu bốn trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên Nguyễn Văn T và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

8. Ngày 29 tháng 7 năm 2020:

- Vào lúc 15 giờ 28 phút ngày 29/7/2020, Đặng Hữu L sử dụng số điện thoại 0971359227 nhắn tin đến số điện thoại 0965050309 của Phan Thị T nội dung tin nhắn “De 25/42/22/92 moi con 50nghin”, “Xuyen 21/45/15 bang 50nghin”, “Lo 54/82/59/99/57băng con 50 diem”, cụ thể Đặng Hữu L đánh các số đề 25, 42, 22, 92 mỗi số đánh với số tiền 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng), số lô xiên 3 (21, 45, 15) đánh với số tiền là 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng), các số lô 54, 82, 59, 99, 57 mỗi số đánh 50 điểm (tổng 250 điểm lô), Phan Thị T nhắn tin trả lời Đặng Hữu L nội dung “Ok”. Tổng số tiền Đặng Hữu L sử dụng để đánh các số lô, số đề, số lô xiên với Phan Thị T vào ngày 29/7/2020 là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). ngày 29/7/2020, Đặng Hữu L trúng thưởng số lô 54 (50 điểm) tương ứng với số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Số tiền Đặng Hữu L và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 29/7/2020 là 6.000.000 đồng + 4.000.000 đồng = 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Số tiền đánh bạc trên Đặng Hữu L và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

- Vào lúc 16 giờ 25 phút ngày 29/7/2020, Trần Văn Thể sử dụng số điện thoại 0989257772 nhắn tin đến số điện thoại 0346842896 của Phan Thị T nội dung tin nhắn “Ghi a de 25.32.72 moi con 20n x3 25.69.73 = 40n”, cụ thể Trần Văn Thể đánh các số đề 25, 32, 72 mỗi số đánh với số tiền là 20.000 đ (Hai mươi ngàn đồng), số lô xiên 3 (25, 69, 73) đánh với số tiền là 40.000 đ (Bốn mươi ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Trần Văn Thể nội dung “Ok” nghĩa là Phan Thị T đồng ý đánh bạc với Trần Văn Thể bằng hình thức nhận các số đề, số lô xiên trên. Tổng số tiền Trần Văn Thể sử dụng để đánh các số đề, số lô xiên với Phan Thị T vào ngày 29/7/2020 là 03 số x 20.000 đồng/01 số + 40.000 đồng = 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng). ngày 29/7/2020, Trần Văn Thể không trúng thưởng số đề, số lô xiên nào. số tiền này Trần Văn Thể đã trả cho Phan Thị T .

- Vào lúc 17 giờ 20 phút ngày 29/7/2020, Phạm Thanh T tiếp tục gửi tin nhắn cho Phan Thị T nội dung tin nhắn “Gì lo 22.41.14.100.d.1c x.3.20.50.68.1 trieu.de. 26.36.63.86.100..1 c. 68.20.50.500.1 c”, cụ thể Phạm Thanh T đánh các số lô 22, 41, 14 mỗi số 100 điểm (tổng 300 điểm lô), số lô xiên 3 (20, 50, 68) đánh với số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), các số đề 26, 36, 63, 86 mỗi số đánh với số tiền là 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng), các số đề 68, 20, 50 mỗi số đánh với số tiền là 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Phạm Thanh T nội dung “Ok”. số tiền Phạm Thanh T sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 29/7/2020 là 9.800.000 đồng (Chín triệu tám trăm ngàn đồng). ngày 29/7/2020, Phạm Thanh T không trúng thưởng. số tiền này Phạm Thanh T chưa trả cho Phan Thị T .

9. Ngày 30 tháng 7 năm 2020:

- Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 30/7/2020, Hoàng Đình Bảo đến nhà ở của Phan Thị T, Hoàng Đình Bảo đánh các số lô 10, 30, 37, 39, 47, 95, 56 mỗi số đánh 01 điểm (tổng 07 điểm), các số đề 30, 37, 73, 76 mỗi số đánh với số tiền là 5000 đồng (Năm ngàn đồng). Tổng số tiền Hoàng Đình Bảo sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 30/7/2020 là 181.000 đồng (Một trăm tám mươi mốt ngàn đồng). ngày 30/7/2020, Hoàng Đình Bảo trúng thưởng các số lô 37, 39, 95 (mỗi số 01 điểm) tương ứng với số tiền trúng thưởng 240.000 đồng (Hai trăm bốn mươi ngàn đồng).số tiền Hoàng Đình Bảo và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 30/7/2020 là 421.000 đồng (Bốn trăm hai mươi mốt ngàn đồng). Số tiền đánh bạc trên Hoàng Đình Bảo và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

- Vào lúc 17 giờ 17 phút ngày 30/7/2020, Nguyễn Đình Tài sử dụng số điện thoại 0384071573 nhắn tin đến số điện thoại 0346842896 của Phan Thị T nội dung tin nhắn “Lô 08 80 77 72 x5 55 x10 đ55x30” cụ thể Nguyễn Đình Tài đánh các số lô 08, 80, 77, 72 mỗi số 05 điểm, số lô 55 đánh 10 điểm (tổng 30 điểm lô), số đề 55 đánh với số tiền là 30.000 đồng (Ba mươi ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Nguyễn Đình Tài nội dung “Ok”.. số tiền Nguyễn Đình Tài sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 30/7/2020 là 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi ngàn đồng). ngày 30/7/2020, Nguyễn Đình Tài trúng thưởng số lô 72 (02 lần) tương ứng với số tiền trúng thưởng Phan Thị T phải trả cho Nguyễn Đình Tài là 800.000 đồng (Tám trăm ngàn đồng).số tiền Nguyễn Đình Tài và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 30/7/2020 là: 720.000 đồng + 800.000 đồng = 1.520.000 đồng (Một triệu năm trăm hai mươi ngàn đồng). số tiền đánh bạc này Nguyễn Đình Tài và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

- Vào lúc 17 giờ 45 phút ngày 30/7/2020, Mai Đình H nhắn tin Phan Thị T nội dung tin nhắn “Đề 38 x200k. 83 x100k. Đầu 6=300k. Lô 80,94 x25d. 38,15 x50d. X2 38,15 x300k, 38,80 x300k, 80,94 x300k. X3 38,80,94 x300k. 38,94,15 x300k”, cụ thể Mai Đình H đánh số đề 38 với số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), số đề 83 đánh với số tiền là 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng), các số đề 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69 (đầu 6) mỗi số đánh với số tiền là 30.000 đồng (Ba mươi ngàn đồng), các số lô 80, 94 mỗi số đánh 25 điểm, các số lô 38, 15 mỗi số đánh 50 điểm (tổng 150 điểm lô), các số lô xiên 2 (38, 15), (38, 80), (80, 94) mỗi số đánh với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), các số lô xiên 3 (38, 80, 94), (38, 94, 15) mỗi số đánh với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Mai Đình H nội dung “Ok”. số tiền Mai Đình H sử dụng để đánh các số lô, số đề, số lô xiên với Phan Thị T vào ngày 30/7/2020 là 5.400.000 đồng (Năm triệu bốn trăm ngàn đồng). ngày 30/7/2020, Mai Đình H trúng thưởng số đề 63, số lô 38 (50 điểm) tương ứng với số tiền trúng thưởng Phan Thị T phải trả cho Mai Đình H là 6.100.000 đồng (Sáu triệu một trăm ngàn đồng). Số tiền Mai Đình H và Phan Thị T đã sử dụng vào mục đích đánh bạc với nhau vào ngày 30/7/2020 là 5.400.000 đồng + 6.100.000 đồng = 11.500.000 đồng (Mười một triệu năm trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc này Mai Đình H và Phan Thị T chưa trả cho nhau.

9. Ngày 31 tháng 7 năm 2020:

- Vào lúc 14 giờ 58 phút ngày 31/7/2020, Thái Duy C sử dụng số điện thoại 0343032852 nhắn tin đến số điện thoại 0346842896 của Phan Thị T nội dung tin nhắn “43 4tr 34 18 1331 5225 1661 8668 5885 2662 36moi c 200k”, “32 23 33 moic 300k 30 100k”, cụ thể Thái Duy C đánh số đề 43 với số tiền là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), các số đề 34, 18, 13, 31, 52, 25, 16, 61, 86, 68, 58, 85, 26, 62, 36 mỗi số 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), các số đề 32, 23, 33 mỗi số đánh với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), số đề 30 đánh với số tiền là 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng), Phan Thị T nhắn tin trả lời Thái Duy C nội dung “Ok”. Số tiền Thái Duy C sử dụng để đánh các số đề với Phan Thị T vào ngày 31/7/2020 là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). số tiền này Thái Duy C chưa trả cho Phan Thị T .

- Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 31/7/2020, Hoàng Đình Nhiên đến nhà ở của Phan Thị T và đưa cho Phan Thị T 01 (một) mẩu giấy (cáp đề) ghi nội dung đánh các số đề 87, 93, 43 mỗi số đánh với số tiền 10.000 đồng (Mười ngàn đồng) thì Phan Thị T đồng ý nhận các số đề Hoàng Đình Nhiên đánh. Sau đó, Hoàng Đình Nhiên đưa cáp đề trên cho Phan Thị T và đưa số tiền 30.000 đồng (Ba mươi ngàn đồng) là số tiền Hoàng Đình Nhiên sử dụng để đánh các số đề trên cho Phan Thị T rồi Hoàng Đình Nhiên đi về nhà, chờ kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng ngày 31/7/2020 để tính thắng thua.

- Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 31/7/2020, Hoàng Đình Bảo đến nhà ở của Phan Thị T và đưa cho Phan Thị T 01 (một) cáp đề ghi nội dung đánh các số lô 08, 74 mỗi số 02 điểm, các số lô 45, 47, 56, 59, 20, 84 mỗi số đánh 01 điểm (tổng 10 điểm lô), các con số đề 20, 32, 30 mỗi số đánh với số tiền là 5000 đồng (Năm ngàn đồng), Phan Thị T đồng ý nhận các số lô, số đề Hoàng Đình Bảo đánh. Số tiền Hoàng Đình Bảo sử dụng để đánh các số lô, số đề với Phan Thị T vào ngày 31/7/2020 là 245.000 đồng (Hai trăm bốn mươi lăm ngàn đồng). Sau đó, Hoàng Đình Bảo đưa cho Phan Thị T cáp đề trên rồi Hoàng Đình Bảo đi về nhà.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 31/07/2020, khi đang thực hiện hành vi đánh bạc thì Phan Thị T bị tổ C tác C an xã L Th bắt quả tang. Tại cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện Y, Phan Thị T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 31/07/2020, Thái Duy C đến cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình:

Ngày 01/08/2020, Thái Văn L , Mai Đình H đến cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình:

Ngày 03/08/2020, Lê Xuân T đến cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của:

Ngày 03/08/2020, Phạm Thanh T, Đặng Hữu L đến cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình:

Ngày 17/08/2020, Nguyễn Văn T đến cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình:

Như vậy, quá trình điều tra xác định được tổng số tiền các đối tượng thực hiện hành vi đánh bạc như sau: Phan Thị T thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 165.606.000 đồng; Phạm Thanh T thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 88.900.000 đồng; Nguyễn Văn T thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 35.900.000 đồng; Lê Xuân T thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 6.990.000 đồng; Mai Đình H thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 11.500.000 đồng; Đặng Hữu L thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 10.000.000 đồng; Thái Duy C thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 8.000.000 đồng; Thái Văn L thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền đánh bạc là 8.000.000 đồng.

Bị cáo Phan Thị T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo”, bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm phát hiện tội phạm nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, gia đình bị cáo được UBND xã L Th tặng giấy khen trong phong trào xây dựng nông thôn mới, và bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”.

Bị cáo Phạm Thanh T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo”; bố của bị cáo là ông Phạm Thanh Vi được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì; mẹ của bị cáo là bà Cao Thị Tâm được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất; bản T Phạm Thanh T là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, C tác được Trung tâm văn hóa thể thao huyện Y, tỉnh Nghệ An và UBND xã Đ Th tặng giấy khen. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”.

Bị cáo Nguyễn Văn T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo”, bố của bị cáo là ông Nguyễn Hữu Đề được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến C hạng Nhất. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”.

Bị cáo Lê Xuân T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo”. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Thái Duy C được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “người phạm tội thành khẩn khai báo”, bố của bị cáo là ông Thái Duy Nhơn được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, mẹ bị cáo là bà Nguyễn Thị Cứu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Thái Văn L được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “người phạm tội thành khẩn khai báo”, bố của bị cáo là ông Thái Minh Huấn được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các bị cáo Mai Đình H, Đặng Hữu L được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” và “người phạm tội thành khẩn khai báo”. Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các bị cáo Phan Thị T có C giúp đỡ cơ quan điều tra Phạm Thanh T, Nguyễn Văn T ,Thái Duy C, Thái Văn L , Lê Xuân T, Phạm Thanh T, Mai Đình H, Đặng Hữu L đã đến cơ quan Điều tra đầu thú, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Vật chứng vụ án:

- Thu giữ của Phan Thị T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy J2, màu nâu vàng, số IMEI1: 354741071290135, số IMEI2:

354742071290133, bên trong máy có gắn sim thuê bao số 0346842896 và sim thuê bao số 0379831171, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI, màu đen, số IMEI 869167032839935, bên trong máy có gắn sim thuê bao số 0338695052 và sim thuê bao số 0965050309, đã qua sử dụng, - Thu giữ của Thái Duy C 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu xám, số IMEI 863897038716754 và 863897038716747, gắn sim số 0969341678 và sim số 0343032852 (hai sim), đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Thái Văn L 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số kiểu máy: SM-J600G/DS, số Sê ri R58K55D6PYP, số IMEI 358465090376941 và 358466090376949, gắn sim 1 số 0373164988 và sim 2 số 0982494841, đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Mai Đình H 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9, màu tím, số IMEI 357175091478825/01, gắn sim 1 số 0966909089 và sim 2 số 0888735230, đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Lê Xuân T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng đen, số IMEI 355624301176408 và 355624301686406, gắn sim số 0374606703 và sim số 0867961659 (hai sim), đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Phan Thanh T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, số IMEI: 359412084806292, gắn sim số 0942682999, đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Đặng Hữu L 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đen, số IMEI 352724106715625 và 352724106715633, gắn sim số 0971359227, đã qua sử dụng.

- Thu giữ của Nguyễn Văn T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đỏ, số IMEI 868476033490015 gắn sim số 0984476929, đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Trần Văn Thể 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, số IMEI 810103600070753 gắn sim số 0989257772, đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Nguyễn Đình Tài 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đen, số IMEI 352020115320602 gắn sim số 0384071573, đã qua sử dụng:

- Thu giữ 04 (bốn) cáp đề được đánh số thứ tự từ 01 đến 04, trên mỗi cáp đề có chữ ký xác nhận của Phan Thị T .

Tất cả các vật chứng trên hiện đang được bảo quản theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 122/VKS - HS ngày 19 tháng 10 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y , tỉnh Nghệ an đã truy tố Phan Thị T, Thái Duy C, Thái Văn L , Mai Đình H, Lê Xuân T, Phạm Thanh T, Đặng Hữu L về “Tội đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự;.

Tại phiên tòa, Đại diện VKSND huyện Y giữ quyền C tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan Điều tra và cũng như tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận hành vi đánh bạc. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với các chứng cứ đã thu thập. Có đủ căn cứ xác định các bị cáo phạm tội như cáo trạng truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm điểm s, t (giúp đồn BP) Khoản 1, 2 (có giấy khen xã phong trào nông thôn) Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Phan Thị T từ 12 đến 15 tháng tù về tội đánh bạc.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm điểm s, Khoản 1, 2 (bố có huân chương) Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Thanh T từ 9 đến 12 tháng tù về tội đánh bạc.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 (giấy khen bộ đội) Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn T 8 đến 9 tháng tù về tội đánh bạc.

4. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm điểm i, s Khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Mai Đình H, Đặng Hữu L từ 7 đến 8 tháng tù nH cho hưởng án treo thử thách 14 đến 16 tháng về tội đánh bạc.

5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm điểm i, s Khoản 1 Điều 51, khoản 1,2 Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Thái Văn L , Thái Duy C từ 6 đến 7 tháng tù, nH cho hưởng án treo thử thách 12 đến 14 tháng về tội đánh bạc.

*) Hình phạt bổ sung: Do các bị cáo bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, vì vậy không đề nghị phạt bổ sung.

7. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm điểm i, s, Khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 36; Bộ luật hình sự xử phạt Lê Xuân T từ 21 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, khấu trừ thu nhập mỗi tháng từ 500.000 đến 700.000 đồng.

Tuyên giao các bị cáo được hưởng án treo, án cải tạo không giam giữ cho địa phương, nơi các bị cáo đang cư trú để quản lý giáo dục, và cần ghi rõ trong bản án.

*) Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch hóa giá xung quỹ nhà nước các điện thoại mà bị cáo đã sử dụng vào để đánh bạc; truy thu số tiền các bị cáo đã đánh bạc đối với Phan Thị T để xung quỹ nhà nước, thu hồi cáp ghi lô đề để bỏ hồ sơ vụ án.

Về án phí: - Áp dụng Điều khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 nghị quyết 326/2016 UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc mỗi bị cáo chịu 200.000đ án HSST.

Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Đình Tài, Hoàng Đình Bảo, Trần Văn Thể, Hoàng Đình Nhiên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, với số tiền phạt là 350.000 đồng/người nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C an huyện Y , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y , Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận: Trong các ngày 07/07/2020 đến 31/07/2020, Phan Thị T là chủ lô đề đã đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề với các đối tượng gồm Phạm Thanh T, Lê Xuân T, Nguyễn Văn T, Thái Duy C, Thái Văn L, Mai Đình H và Đặng Hữu L. Cụ thể như sau:

* Đối với Phan Thị T đã thực hiện hành vi đánh bạc 14 lần:

- Ngày 07/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Phạm Thanh T số tiền là 26.400.000 đồng:

- Ngày 08/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Phạm Thanh T số tiền là 22.900.000 đồng:

- Ngày 23/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Phạm Thanh T số tiền là 11.700.000 đồng:

- Ngày 24/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Phạm Thanh T số tiền là 9.800.000 đồng - Ngày 22/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Thái Văn L  số tiền là 8.000.000 đồng:

- Ngày 24/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Lê Xuân T số tiền là 6.990.000 đồng; đánh bạc với Nguyễn Văn T số tiền là 15.100.000 đồng; đánh bạc với Phạm Thanh T số tiền 9.800.000 đồng:

- Ngày 26/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Phạm Thanh T số tiền là 9.200.000 đồng và đánh bạc với Nguyễn Văn T số tiền là 8.400.000 đồng:

- Ngày 28/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Nguyễn Văn T số tiền là 12.400.000 đồng:

- Ngày 29/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Đặng Hữu L số tiền là 10.000.000 đồng:

- Ngày 30/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Mai Đình H số tiền là 11.500.000 đồng:

- Ngày 31/07/2020, Phan Thị T đánh bạc với Thái Duy C số tiền là 8.000.000 đồng.

* Đối với Phạm Thanh T đã thực hiện hành vi đánh bạc 06 lần:

- Ngày 07/07/2020, Phạm Thanh T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 26.400.000 đồng:

- Ngày 08/07/2020, Phạm Thanh T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 22.900.000 đồng:

- Ngày 23/07/2020, Phạm Thanh T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 11.700.000 đồng:

- Ngày 24/07/2020, Phạm Thanh T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 9.800.000 đồng:

- Ngày 24/07/2020, Phạm Thanh T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 9.800.000 đồng:

- Ngày 26/07/2020, Phạm Thanh T đánh bạc với Phan Thị T là 9.200.000 đồng.

 * Đối với Nguyễn Văn T đã thực hiện hành vi đánh bạc 03 lần:

- Ngày 24/07/2020, Nguyễn Văn T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 15.100.000 đồng:

- Ngày 26/07/2020, Nguyễn Văn T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 8.400.000 đồng:

- Ngày 28/07/2020, Nguyễn Văn T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 12.400.000 đồng:

* Đối với Lê Xuân T : Ngày 24/07/2020, Lê Xuân T đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 6.990.000 đồng:

* Đối với Đặng Hữu L : Ngày 29/07/2020, Đặng Hữu L đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 10.000.000 đồng:

* Đối với Mai Đình H : Ngày 30/07/2020, Mai Đình H đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 11.500.000 đồng:

* Đối với Thái Duy C : Ngày 31/07/2020, Thái Duy C đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 8.000.000 đồng.

* Đối với Thái Văn L : Ngày 22/07/2020, Thái Văn L đánh bạc với Phan Thị T số tiền là 8.000.000 đồng:

[3]. Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự C cộng được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Các bị cáo Phan Thị T, Phạm Thanh T, Nguyễn Văn T đánh bạc với số tiền lớn nH mỗi lần đánh bạc mỗi lần chưa đến 50.000.000 đồng nên bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố khoản 1 Điều 321 bộ luật hình sự là đúng quy định của Pháp luật.

Xét vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm, các bị cáo đều là người thực hành, chủ động thực hiện tội phạm.

Bị cáo Phan Thị T là đối tượng đứng ra nhận ghi lô, đề từ các bị cáo khác, số tiền bị cáo thực hiện tội phạm với 11 lần tổng số tiền (165.606.000) nH xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân T chưa có tiền án tiền sự, số tiền bị cáo tham gia đánh bạc tuy lớn nH thực tế bị cáo và các đối tượng mới chỉ chuyển cáp đề, chưa chuyển tiền, số tiền thu lợi bất chính không lớn, bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm phát hiện tội phạm, gia đình bị cáo được UBND xã L Th tặng giấy khen trong phong trào xây dựng nông thôn mới, hiện nay bị cáo đang nuôi con nhỏ một mình, chồng của bị cáo đang chấp hành án của một vụ án khác, những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mới nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Phạm Thanh T tham gia đánh bạc 06 lần. Số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 88.900.000 đồng, lớn thứ hai trong vụ án vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, lý lịch chưa có tiền án tiền sự, bị cáo đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc của bị cáo tuy lớn nH chủ yếu do số tiền thắng lô, đề trong nhiều lần, thực tế các bị cáo chưa giao nhận tiền, bị cáo chưa được hưởng lợi. Vì vậy, áp dụng hình phạt tương xứng đối với bị cáo cũng đủ để răn đe.

Bị cáo Nguyễn Văn T là đối tượng ba lần trực tiếp đánh lô đề với Phan Thị T, số tiền mà Nguyễn Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự là 35.900.000 đồng. Số tiền bị cáo thực hiện tội tương đối lớn, vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, lý lịch chưa có tiền án tiền sự, bị cáo đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc của bị cáo tuy lớn thứ ba nH chủ yếu do số tiền thắng lô, đề, thực tế các bị cáo chưa giao nhận tiền, bị cáo chưa được hưởng lợi, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn bị cáo T và T và cũng đủ để răn đe.

Bị cáo Đặng Hữu L, Mai Đình H Thái Duy C, Thái Văn L là đối tượng trực tiếp đánh lô đề với Phan Thị T. Thực hiện với vai trò đồng phạm trong vụ án, Số tiền các bị cáo thực hiện tội phạm ở mức gần kề với đầu khung hình phạt tại khoản 1 Điều 321, Bị cáo H có bố là Mai Đức Tú được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, Huy hiệu 30 năm tuổi đảng, là bệnh binh mất sức lao động 68%. bị cáo đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có chỗ ở rõ ràng, bản T có thể cải tạo được nên chưa cần cách ly các bị cáo ra đời sống xã hội, nên cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo cũng đủ nghiêm.

Bị cáo Lê Xuân T là đối tượng đánh bạc lô, đề, số tiền của bị cáo thực hiện tội phạm là 6.990.000 đồng, ít nhất trong các bị cáo; cũng cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã trên 60 tuổi, thuộc diện người cao tuổi, bản T bị cáo có nhiều bệnh tật, bị cáo đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, thực tế bị cáo mới nhắn tin lô, đề, chưa giao nhận tiền, bị cáo chưa được hưởng lợi nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng nH chưa cần cách ly bị cáo ra đời sống xã hội, cho bị cáo được giáo dục, cải tại tại cộng đồng cũng đủ để răn đe.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Phan Thị T, Phạm Thanh T, Nguyễn Văn T phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. các bị cáo Lê Xuân T, Mai Đình H, Đặng Hữu L, Thái Duy C, Thái Văn L không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Đình Tài, Hoàng Đình Bảo, Trần Văn Thể, Hoàng Đình Nhiên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, với số tiền phạt là 350.000 đồng/người [4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Phan Thị T , Phạm Thanh T, Nguyễn Văn T, Thái Duy C, Thái Văn L , Đặng Hữu L, Mai Đình H là những đối tượng lao động thu nhập thấp, không ổn định, gia đình có hoàn cảnh khó khăn vì vậy không cần T áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Riêng bị cáo Lê Xuân T thuộc đối tượng người cao tuổi nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[5]. Xét thấy số tiền bị cáo Phan Thị T đã nhận từ các bị cáo đề đánh lô đề:

456.000 đ (bốn trăm năm mươi sáu nghìn đồng); xét đây là số tiền thu lợi bất chính của bị cáo cần áp dụng Điều 46, điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS truy thu sung C quỹ nhà nước: các bị cáo đánh bạc nH chưa chuyển tiền cho nhau nH xét thấy đây là số tiền cần truy thu sung C quỹ nhà nước [6]. Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Đình Tài, Hoàng Đình Bảo, Trần Văn Thể, Hoàng Đình Nhiên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Y đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên miễn xét.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016: đối với bị cáo Lê Xuân T được miễn án phí thuộc diện người cao tuổi; buộc các bị cáo Phan Thị T, Phạm Thanh T, Lê Xuân T, Nguyễn Văn T, Thái Duy C, Thái Văn L , Đặng Hữu L, Mai Đình H phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Phan Thị T, Phạm Thanh T, Lê Xuân T, Nguyễn Văn T, Mai Đình H, Đặng Hữu L, Thái Duy C, Thái Văn L phạm tội “ Đánh bạc”.

+ Căn cứ điểm khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s,t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo Phan Thị T 08( tám) tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nH trừ đi ngày tạm giữ; từ 31/07/2020 đến ngày 09/08/2020 + Căn cứ điểm khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1,khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Thanh T 07( bảy) tháng thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nH trừ đi ngày tạm giữ, từ ngày 04/08/2020 đến ngày 10/08/2020.

+ Căn cứ điểm khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06( sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nH trừ đi ngày tạm giữ, từ ngày 23/08/2020 đến ngày 30/10/2020.

+ Căn cứ điểm khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm i,s khoản 1 Điều 51 ; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Mai Đình H 06( sáu) tháng tù, nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Căn cứ điểm khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Đặng Hữu L 06( sáu)tháng tù, nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Căn cứ điểm khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Thái Duy C 06( sáu) tháng tù, nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Căn cứ điểm khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Thái Văn L 06( sáu) tháng tù, nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Mai Đình H, Thái Duy C và bị cáo Thái Văn L cho Ủy ban nhân dân xã L Th , huyện Y , tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã L Th , huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục bị cáo.

Giao bị cáo Đặng Hữu L cho Ủy ban nhân dân xã Nh Th , huyện Y , tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Nh Th , huyện Y , tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục bị cáo.

Các bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

+ Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; điều 36 BLHS xử phạt bị cáo Lê Xuân T 21 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Lê Xuân T cho Ủy ban nhân dân xã Xuân Thành, huyện Y, tỉnh Nghệ An, nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục các bị cáo trong thời gian thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 BLTTHS, Điều 47 BLHS tịch thu hóa giá sung C quỹ nhà nước:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy J2, màu nâu vàng, số IMEI1: 354741071290135, số IMEI2: 354742071290133, bên trong máy có gắn sim thuê bao số 0346842896 và sim thuê bao số 0379831171, đã qua sử dụng:

-01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI, màu đen, số IMEI 869167032839935, bên trong máy có gắn sim thuê bao số 0338695052 và sim thuê bao số 0965050309, đã qua sử dụng, - 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu xám, số IMEI 863897038716754 và 863897038716747, gắn sim số 0969341678 và sim số 0343032852 (hai sim), đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số kiểu máy: SM-J600G/DS, số Sê ri R58K55D6PYP, số IMEI 358465090376941 và 358466090376949, gắn sim 1 số 0373164988 và sim 2 số 0982494841, đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9, màu tím, số IMEI 357175091478825/01, gắn sim 1 số 0966909089 và sim 2 số 0888735230, đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng đen, số IMEI 355624301176408 và 355624301686406, gắn sim số 0374606703 và sim số 0867961659 (hai sim), đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, số IMEI:

359412084806292, gắn sim số 0942682999, đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đen, số IMEI 352724106715625 và 352724106715633, gắn sim số 0971359227, đã qua sử dụng, - 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đỏ, số IMEI 868476033490015 gắn sim số 0984476929, đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, số IMEI 810103600070753 gắn sim số 0989257772, đã qua sử dụng:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đen, số IMEI 352020115320602 gắn sim số 0384071573, đã qua sử dụng:

- Thu giữ 04 (bốn) cáp đề được đánh số thứ tự từ 01 đến 04, trên mỗi cáp đề có chữ ký xác nhận của Phan Thị T để lưu hồ sơ vụ án. (Đặc điểm chi tiết các loại vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2020 giữa C an huyện Y và Chi cục thi hành án dân sự huyện Y ).

3. Truy thu sung C quỹ nhà nước đối với các bị cáo:

- Phan Thị T số tiền: 456.000 đ (bốn trăm năm mươi sáu nghìn đồng):

- Phạm Thanh T số tiền: 15.900.000 đ (mười lăm triệu chín trăm nghìn đồng):

- Nguyễn Văn T số tiền: 64.900.000 đ (sáu mươi bốn triệu chín trăm nghìn đồng):

- Mai Đình H số tiền: 5.400.000 đ (năm triệu bốn trăm nghìn đồng):

- Đặng Hữu L số tiền: 6.000.000 đ (sáu triệu đồng):

- Thái Duy C số tiền: 8.000.000 đ (Tám triệu đồng):

- Thái Văn L số tiền: 8.000.000 đ (Tám triệu đồng):

- Lê Xuân T số tiền: 2.990.000 đ (Hai triệu chín trăm chín mươi nghìn đồng):

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc các bị cáo phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt khi tuyên án có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

524
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:135/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về