Bản án 135/2017/HSST ngày 13/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 135/2017/HSST NGÀY 13/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Hôm nay, ngày 13 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 158/2017/HSST ngày 30 tháng 5 năm 2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2017/QĐXX-HS ngày 22 tháng 6 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số 34/2017/QĐHPT-HS ngày 03 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) Sinh năm: 1990; Nơi ĐKNKTT và chỗ hiện nay:  22KC C, phường V, Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; Trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam;

Bố: Trương Văn ; Mẹ: Nguyễn Thị C.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 24/01/2017, bị Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang ban hành quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục -  Lao động xã hội tỉnh Khánh Hòa nay là Trung tâm cai nghiện Khánh Hòa.

Nhân thân: Ngày 01/8/2011, bị Ủy ban nhân dân Tp Nha Trang ban hành quyết định đưa vào Cơ sở chữa bệnh tại Trung tâm Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Khánh Hòa. Ngày 24/7/2013, Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Thọ, Tp Nha Trang ban hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã. Ngày 18/12/2013, bị Ủy ban nhân dân Tp Nha Trang ban hành quyết định đưa vào Cơ sở chữa bệnh tại Trung tâm Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Khánh Hòa. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Khánh Hòa; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại :

1. Bà Trương Thị Thanh T.

Nơi ĐKHKTT: Đội 1, thôn L, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.

Chỗ ở: 679/3 C, phường V, tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

2. Bà Lê Thị Thanh T

Nơi ĐKHKTT: 34A C, phường V, tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Bà Lưu Thị Thanh X

Chỗ : 30A C, phường V, tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 07/12/2016 Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) đi bộ đến dãy phòng trọ số 679/3 C, V, thành phố Nha Trang với m c đích xem ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Đ đi vào trong dãy phòng trọ thì phát hiện một xe đạp điện hiệu Asama A48 màu đỏ của chị Trương Thị Thanh T dựng trước phòng trọ số 02 và không có người trông coi, Đ liền lấy trộm chiếc xe đạp điện này và đem đến trước nhà số 55 P, phường V, tp. Nha Trang bán cho một người phụ nữ tên C (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) với giá 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng). Số tiền trên Đ mua ma túy sử dụng hết.

Đến khoảng 11 giờ ngày 21/12/2016, Đ đi bộ ngang nhà chị Lê Thị Thanh T tại 34A C, phường V, Nha Trang thì phát hiện cửa nhà không khóa, trên bàn phòng khách có để một giỏ xách nhưng không có người trông coi. Đ liền lục giỏ xách lấy được một điện thoại hiệu Samsung Galaxy J5, một ví tiền bên trong có 1.900.000 đồng (một triệu chín trăm ngàn đồng), 02 USD, chứng minh nhân dân và bằng lái mang tên chị T. Sau đó, Đ l c ví lấy tiền còn ví Đ vứt trước đường hẻm vào nhà, giấy tờ Đ vứt lại trước nhà chị T. Số tiền trộm cắp Đ mua ma túy sử d ng hết còn điện thoại di động Samsung J5, Đ giữ lại sử dụng và đánh mất.

Tại biên bản định giá tài sản số 07/TCKH ngày 06/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: 01 (một) xe đạp điện hiệu Asama A48 có giá trị là: 5.580.000 đồng (Năm triệu năm trăm tám mươi ngàn đồng).

Tại biên bản định giá tài sản số 05/TCKH ngày 06/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng  hình sự xác định: 01 (một) điện thoại Samsung J5 có giá trị 3.107.000 đồng (Ba triệu một trăm lẻ bảy nghìn đồng).

Số tiền 02 USD tại thời điểm Trương Ngọc Đ (tên gọi khác:R) trộm cắp được có giá trị là: 44.000 đồng (Bốn mươi bốn ngàn đồng).

Tổng giá trị tài sản Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) trộm cắp được của chị Lê Thị Thanh T có giá trị là: 5.051.000 đồng (Năm triệu không trăm năm mươi mốt ngàn đồng).

Đến ngày 25/12/2016, Cơ quan CSĐT CATP Nha Trang đưa Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) về trụ sở làm việc. Qua đấu tranh, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tổng giá trị tài sản Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) trộm cắp được trong 02 vụ có giá trị là: 10.631.000 đồng (Mười triệu sáu trăm ba mươi mốt ngàn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 122/KSĐT-XXSTHS ngày 29 tháng 5 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp d ng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R); xử phạt bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) mức án từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam để thi hành án. Về trách nhiệm dân sự: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) bồi thường cho người bị hại Trương Thị Thanh T giá trị của chiếc xe đạp điện hiệu Asama A48 là: 5.580.000 (năm triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng); người bị hại Lê Thị Thanh T vắng mặt, nên tách ra thành vụ án dân sự khác khi người bị hại có đơn yêu cầu; tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về làm lại cuộc đời.

Tại phiên tòa, người bị hại Trương Thị Thanh T yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị của chiếc xe đạp điện hiệu Asama A48 là: 5.580.000đ (năm triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng). Bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R)  chấp nhận mức bồi thường mà người bị hại yêu cầu.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng

[1] Về thủ tục tố tụng:

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, người bị hại Lê Thị Thanh T, người làm chứng  Lưu Thị Thanh X vắng mặt không có lý do. Xét thấy việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) đã khai nhận để có tiền mua ma túy sử dụng nên ngày 07/12/2016, tại dãy phòng trọ số 679/3 C, phườngV, thành phố Nha Trang bị cáo Trương Ngọc Đ (R) đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 (một ) xe đạp điện hiệu Asama A48 màu đỏ của chị Trương Thị Thanh T trị giá 5.580.000đ (năm triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng). Tiếp đó đến khoảng 11 giờ ngày 21/12/2016, bị cáo đã đột nhập vào nhà chị Lê Thị Thanh T tại 34A C, phường V, Nha Trang để thực hiện hành vi trộm cắp 01 (một) giỏ xách bên trong có 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy J5, trị giá 3.107.000đ (ba triệu một trăm lẻ bảy nghìn đồng); tiền mặt: 1.900.000đ (một triệu chín trăm nghìn đồng) và 02 US. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp là: 10.631.000 đồng (Mười triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn đồng).

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận tin báo; lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử  có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng số 122/KSĐT-XXSTHS ngày 29 tháng 5 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu của công dân, làm ảnh hư ng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng không lo tu dưỡng rèn luyện đạo đức, làm ăn chân chính lương thiện mà lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính tham lam, tư lợi và coi thường pháp luật của bị cáo. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, 02 (hai) lần bị áp d ng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở chữa bệnh và hiện nay đang bị áp d ng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng. Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra tài sản mà bị cáo trộm cắp chưa trả cho người bị hại. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác d ng răn đe, giáo d c bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trương Ngọc Đ (R) đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, tu dưỡng trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

+ Người bị hại Trương Thị Thanh T yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị của chiếc xe đạp điện hiệu Asama A48 là: 5.580.000đ (năm triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng). Bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) chấp nhận mức bồi thường mà người bị hại yêu cầu.

+ Người bị hại bà Lê Thị Thanh T vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm g khoản 1  Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giam để thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) bồi thường số tiền 5.580.000đ (năm triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng) cho người bị hại Trương Thị Thanh T. Người bị hại, bà Lê Thị Thanh T vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi bà T có yêu cầu.

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 98 và Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trương Ngọc Đ (tên gọi khác: R) phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2017/HSST ngày 13/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:135/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về