Bản án 134/2020/HSST ngày 24/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 134/2020/HSST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 148/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN THỊ LAN O, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1999 tại G; nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã B, huyện C, tỉnh G; chỗ ở (thuê phòng trọ): Tổ 01, phường I, TP. P, tỉnh G; nghề nghiệp: Nhân viên lễ tân tại nhà hàng; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà: Lê Thị Tường V sinh năm 1981; hiện mẹ bị cáo đang trú tại: Thôn Đ, xã B, huyện C, tỉnh G; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2006; bị cáo chưa có chồng, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O bị tạm giữ từ ngày 06-6-2020 đến ngày 15-6- 2020, sau đó bị tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Huỳnh Thị Thu T, sinh năm 2002; địa chỉ: Tổ 03, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G. Có mặt.

- Anh Nguyễn Đình K, sinh năm 1997; địa chỉ: Tổ 06, phường P, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ 01, phường I, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.

Người chứng kiến:

- Ông Đặng Văn B, sinh năm 1959; địa chỉ: Tổ 01, phường I, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

NGUYỄN THỊ LAN O là người có sử dụng chất ma túy và biết được số điện thoại của đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy.

Từ đầu tháng 5/2020, O và Huỳnh Thị Thu T (sinh ngày 19-6-2002, trú tại Tổ 3, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G) cùng ở tại phòng số 8, nhà trọ số 28 đường H, Tổ 01, phường I, thành phố P. Khoảng 20 giờ 12 phút ngày 05-6-2020, O nhận được cuộc gọi từ số điện thoại 0914.229.357 giới thiệu tên là T (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 7.000.000 đồng ma túy Khay và thuốc Lắc; O đồng ý và hẹn giao ma túy cho T trước dãy trọ của O. Sau đó, O gọi điện thoại cho đối tượng H hỏi mua ma túy rồi thuê xe thồ đi đến khu vực đường N, phường I, thành phố P gặp H. Tại đây, O đã mua của H 10 viên thuốc Lắc và 01 gói ma túy Khay với giá 6.000.000 đồng; do chưa có tiền nên O hẹn H sau khi bán được ma túy sẽ trả thì H đồng ý. O mang số ma túy này về phòng trọ, dùng giấy gói kín lại; mục đích của O sẽ bán cho T số ma túy này với giá 7.000.000 đồng. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, T gọi điện thoại nói cho O biết T đang đứng chờ ở trước dãy nhà trọ thì O đưa gói ma túy đã được gói giấy kín nhờ T ra đưa hộ; O không nói cho T biết trong gói giấy là ma túy nên T đã đồng ý. Lúc 20 giờ 50 phút, khi T đang đứng trước số 28 đường H, Tổ 1, phường I, thành phố Pleiku thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường I phát hiện; thu giữ trong túi áo của T 01 gói giấy bên trong có 01 gói nilon chứa 10 viên nén màu xanh và 01 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể (được niêm phong theo quy định). Lúc này, T mới biết trong gói giấy mà O nhờ T đi giao hộ là ma túy. Ngay sau đó, O bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Cơ quan điều tra đã thu giữ của T 01 điện thoại di động Iphone màu trắng viền xung quanh màu đồng kèm sim số; thu giữ của O 01 điện thoại di động Iphone màu trắng (không có sim), 01 điện thoại Iphone màu vàng đồng kèm sim số (mặt sau sim có ghi dãy số 8984.04800.00480.81596), số tiền 2.000.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được quấn tròn.

Bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Ngày 08-6-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku ra Quyết định trưng cầu giám định. Tại Bản kết luận giám định số: 474/KLGĐ ngày 14/6/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “10 viên nén, màu xanh trong 01 gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 3,7615 gam; chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,2737 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 149/CT-VKS ngày 11-9-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O với mức án từ 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù đến 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 06-6-2020.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì công văn ghi số: 474/PC09 ngày 14-6-2020 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai. (Có các chữ ký của Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đ, Bùi Sỹ T).

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01(một) chiếc điện thoại Iphone, màu vàng đồng kèm sim số. (mặt sau sim có ghi dãy số 8984-04800-00480-81596). (điện thoại đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án thành phố Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong) và 01 tờ tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng).

Trả lại cho bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone, màu trắng (không có sim số). (điện thoại cũ đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án thành phố Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong) và 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là tài sản cá nhân của bị cáo O, không liên quan đến vụ án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo nhận thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh G; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O phạm tội như sau:

Vào khoảng 20 giờ 12 phút ngày 05-6-2020, khi có đối tượng Toàn (chưa rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện thoại hỏi mua ma túy thì bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O đã đồng ý và hẹn Toàn đến trước số nhà 28 đường Hùng Vương thuộc Tổ 01, phường Ia K, thành phố P, để giao ma túy. Sau đó, bị cáo O đi đến khu vực đường N, phường I, thành phố P để mua của đối tượng H (không rõ nhân thân, lai lịch) 10 (mười) viên thuốc Lắc và 01 (một) gói ma túy Khay với giá 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) mang về phòng trọ cất giấu, với mục đích để bán cho đối tượng T với giá 7. 000.000 đồng (bảy triệu đồng). Đến 20 giờ 50 phút cùng ngày, bị cáo O đã nhờ Huỳnh Thị Thu T (là bạn ở cùng phòng trọ) mang gói ma túy này ra trước số nhà 28 đường H để giao cho đối tượng T thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phát hiện và thu giữ tang vật gồm: 01 (một) gói giấy bên trong có 01 (một) gói nilon chứa 10 (mười) viên nén màu xanh và 01 (một) gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể. T không biết bên trong gói giấy mà bị cáo O nhờ đưa dùm cho đối tượng Toàn là ma túy. Ngay sau đó, bị cáo O bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Qua giám định, xác định: 10 viên nén, màu xanh trong 01 gói nilon là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 3,7615 gam; chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 gói nilon 0,2737 gam ma túy, loại Ketamine.

Tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

 “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

a) Có tổ chức:

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam:

n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam:

 o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít:

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này:

…”.

Ma tuý là chất độc, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và tâm sinh lý của con người, làm hạn chế hoạt động của não bộ và gây ức chế hệ thần kinh. Sự nghiện ngập là biểu hiện của trạng thái ngộ độc mãn tính do chất ma tuý gây ra, làm tổn thương cho bản thân. Ma tuý gây tác hại về nhiều mặt trong đời sống. Sử dụng ma tuý làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O là người đã trưởng thành, có trình độ học vấn, lẽ ra bị cáo phải nhận thức được tác hại và hậu quả của việc sử dụng ma túy để tránh xa mà tập trung làm ăn, lao động chân chính. Nhưng vì muốn có tiền tiêu xài bất chính mà bị cáo đã mua và cất giấu 10 viên nén màu xanh là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 3,7615 gam và chất màu trắng dạng tinh thể là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,2737 gam với mục đích để bán. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, góp phần tiếp tay gieo rắc nạn dịch HIV-AIDS và những tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo cải tạo bản thân để tiến bộ là cần thiết.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 (một) bì công văn ghi số: 474/PC09 ngày 14-6-2020 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai. (Có các chữ ký của Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đ, Bùi Sỹ T). Xét đây là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy Đối với 01(một) chiếc điện thoại Iphone, màu vàng đồng kèm sim số. (mặt sau sim có ghi dãy số 8984-04800-00480-81596). (điện thoại đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án thành phố P không kiểm tra tình trạng bên trong) và 01 tờ tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng (mười ngàn đồng). Xét đây là công cụ mà bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone, màu trắng (không có sim số). (điện thoại cũ đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án thành phố P không kiểm tra tình trạng bên trong) và 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O.

[5] Về hình phạt bổ sung: Mục đích của bị cáo mua ma túy về để bán, nhưng chưa bán được, không có thu lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với Huỳnh Thị Thu T là người mà bị cáo O đã nhờ mang gói ma túy ra trước dãy nhà trọ (nơi T và bị cáo O thuê ở cùng) để giao giúp cho đối tượng T. Qua điều tra xác định: T hoàn toàn không biết trong gói giấy mà bị cáo O nhờ giao giúp là ma túy và bị cáo O cũng không nói cho T biết, nên không có căn cứ để xử lý T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với vai trò đồng phạm.

Đối với anh Nguyễn Đình K là chủ thuê bao số điện thoại mà bị cáo O khai đã gọi cho bị cáo O nói tên là T và hỏi mua ma túy. Tuy nhiên, anh K khai là đã cho một người khách (không rõ họ tên, địa chỉ) mượn điện thoại để gọi và anh K không biết nội dung cuộc gọi. Do đó, không có căn cứ để xử lý.

Đối với đối tượng tên H là người đã bán ma túy cho bị cáo O và đối tượng tên T là người đã hỏi mua ma túy của bị cáo O. Quá trình điều tra do bị cáo O không biết rõ họ tên, lai lịch của H và T, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chưa có căn cứ để xử lý. Hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, khi nào xác định được, sẽ xem xét và xử lý sau.

Đối với bà Nguyễn Thị Lệ H là chủ nhà trọ số 28 đường H thuộc Tổ 01, phường I, thành phố P việc bị cáo O mua ma túy mang về phòng trọ rồi mang bán trái phép chất ma túy thì bà H không biết nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 06-6-2020.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì công văn ghi số: 474/PC09 ngày 14/6/2020 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

(Có các chữ ký của Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đ, Bùi Sỹ Th).

Tịch thu sung ngân quỹ Nhà nước 01(một) chiếc điện thoại Iphone, màu vàng đồng kèm sim số. (mặt sau sim có ghi dãy số 8984-04800-00480-81596). (điện thoại đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án thành phố P không kiểm tra tình trạng bên trong) và 01 tờ tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng).

Trả lại cho bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone, màu trắng (không có sim số). (điện thoại cũ đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án thành phố Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong) và 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

(Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16 tháng 9 năm 2020 giữa Công an thành phố P và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P,tỉnh G).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo NGUYỄN THỊ LAN O phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015; Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2020/HSST ngày 24/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:134/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về