Bản án 134/2018/HS-ST ngày 14/11/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 134/2018/HS-ST NGÀY 14/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 130/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vương Thị L; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1958; Giới tính: Nữ;KHKTT và nơi ở: Thôn P 2, xã P, huyện G, Thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Con ông: Vương Đình C, sinh năm 1933 và con bà: Bùi Thị L, sinh năm 1935; Gia đình có 7 anh em bị cáo là con thứ 02; Chồng: Đinh Văn H, sinh năm 1959; Có 02 con: Con lớn sinh năm 1982, con thứ 02 sinh năm 1980; Danh chỉ bản số 0197, lập ngày 22/8/2018 tại Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 21/6/2018 đến ngày 24/6/2018 Quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, Bị cáo hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 36/LCCT-VKSGL ngày 20/10/2018. Bị cáo tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 45 phút ngày 21/6/2018, tổ công tác Đội cảnh sát hình sự, Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Vương Thị L đang thực hiện hành vi bán số Lô, số Đề cho Chu Văn B, sinh năm 1963; Trú tại: Thôn G, xã K, huyện G, Thành phố Hà Nội và Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1972; Trú tại: Xóm V, xã C, huyện Đ, Thành phố Hà Nội tại nhà của L ở Thôn P 2, xã P, huyện G, Thành phố Hà Nội.

Vật chứng Cơ quan Công an thu giữ gồm:

- 01 Cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Chu Văn B ngày 21/6/2018.

- 01 Cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Nguyễn Văn Đ ngày 21/6/2018.

- 02 Bảng ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho khách ngày 21/6/2018.

- Số tiền 5.980.000 đồng (Năm triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng).

Tổ công tác Công an huyện Gia Lâm đã lập biên bản và đưa các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở Công an để điều tra làm rõ.

Ngày 22/6/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vương Thị L ở Thôn P 2, xã P, huyện G, Thành phố Hà Nội nhưng không phát hiện và không thu giữ được đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội của L.

Tại bản kết luận giám định số 3280/C09-P5 ngày 17/8/2018 của Viện khoa học Hình sự - Bộ Công an kết luận: Chữ viết trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A4 so với chữ viết của Vương Thị L trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người viết ra.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Vương Thị L khai nhận:

L bắt đầu bán số Lô, số Đề từ ngày 19/6/2018 và trực tiếp thanh toán tiền thắng, thua với khách. L quy định cách chơi và tiền trả thưởng với khách như sau: Khách sẽ chọn mua số Lô, số Đề bất kỳ từ số 00 đến 99 với số tiền tùy ý. Nếu số Đề mà khách mua trùng với 2 số cuối của giải đặc biệt của Kết quả xổ số Kiến thiết Miền Bắc mở thưởng trong ngày thì sẽ trúng và được trả gấp 80 lần số tiền mà họ đã mua số đó (1x80). Đối với số Lô đơn khách mua 1 điểm Lô phải trả cho L là 23.000 đồng (Hai mươi B nghìn đồng). Nếu số Lô đơn mà khách mua trùng với 02 số cuối của tất cả các giải trong Kết quả xổ số Kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, kể cả giải đặc biệt thì sẽ trúng và được trả gấp 80 lần. Đối với Lô xiên 3, khách mua 1 điểm lô xiên 3 thì phải trả cho Vương Thị L 10.000 đồng; Nếu 3 số Lô khác nhau mà khách mua trùng với 3 số cuối của tất cả các giải trong kết quả xổ số Kiến thiết Miền Bắc kể cả giải Đặc biệt mở thưởng cùng ngày thì người chơi được trả tiền gấp 40 lần số tiền đã mua.

Khi mua số Lô, số Đề, người chơi sẽ đọc số Lô, số Đề và L ghi các con số và số tiền người chơi mua vào một tờ giấy gọi là “Bảng”, sau đó L tiếp tục ghi vào một mảnh giấy nhỏ, gọi là “Cáp”. Sau khi có kết quả xổ số Kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, nếu người chơi trúng số Lô, số Đề đã chơi thì sẽ mang “Cáp” đến thanh toán tiền trúng số Lô, số Đề với L.

Đến khoảng 17 giờ 45 phút ngày 21/6/2018, khi L đã bán cho Chu Văn B các số Lô, số Đề gồm: Số Lô 01 là 40 điểm và số Đề đầu 2 gồm các số từ 20 đến 29 và số đề đầu 0 gồm các số từ 00 đến 09 mỗi số 100.000 đồng; L bán cho Nguyễn Văn Đ gồm: số Lô: 68 và 15 mỗi số 25 điểm, 50 điểm số Lô 86, 100.000 đồng số Đề 86, số Đề 68 và 51 mỗi số 50.000 đồng. Khi L đang nhận tiền của Đ thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra, ngày 21/6/2018, trước khi Công an bắt quả tang, ngoài bán số Lô, số Đề cho Chu Văn B và Nguyễn Văn Đ, Vương Thị L còn bán số Lô, số Đề cho những người khác L không biết tên tuổi, địa chỉ.

Qúa trình điều tra đã xác định được: Ngày 21/6/2018, Vương Thị L đã bán số Lô, số Đề cho Chu Văn B và Nguyễn Văn Đ, và những người khác L không biết tên, tuổi, địa chỉ. Tổng số tiền L bán số Lô, số Đề ngày 21/6/2018 là 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng), trong đó: Số tiền bán số Lô đơn là 4.945.000 đồng, số tiền bán số Lô xiên 3 là 50.000 đồng, số tiền bán số Đề là 4.503.000 đồng.

Ngày 24/9/2018, L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm số tiền 3.518.000 đồng (B triệu năm trăm mười tám nghìn đồng) là tiền do L bán số Lô, số Đề ngày 21/6/2018 cho khách.

Tổng số tiền Chu Văn B đã dùng vào việc đánh bạc là 2.920.000 đồng. Tổng số tiền Nguyễn Văn Đ đã dùng vào việc đánh bạc là 2.500.000 đồng.

Qúa trình điều tra, Vương Thị L khai nhận: L bán số Lô, số Đề từ ngày 19/6/2018. Ngoài lời khai của L, không có tài liệu nào khác chứng minh Vương Thị L có hành vi đánh bạc nhiều lần.

Tại Cơ quan điều tra, Công an huyện Gia Lâm Vương Thị L đã khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên.

Với nội dung trên tại Bản cáo trạng số 127/CT/VKS-KSĐT, ngày 23/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã Quyết định truy tố bị cáo Vương Thị L ra trước tòa về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo Vương Thị L đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận hành vi đánh bạc trái phép, sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức mua bán số lô, số đề vào ngày 21/6/2018 với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 9.498.000 đồng của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản Cáo trạng số 127/CT-VKSGL ngày 23/10/2018. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vương Thị L phạm tội “ Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Vương Thị L mức án phạt tù từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 18 tháng đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Vương Thị L cho Uỷ Bn nhân dân xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định.

Về vật chứng:

- Tịch thu, lưu tại hồ sơ: 01 cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Chu Văn B ngày 21/6/2018; 01 cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Nguyễn Văn Đ ngày 21/6/2018; 02 bảng ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho khách ngày 21/6/2018.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Đối với Chu Văn B, Nguyễn Văn Đ là người mua số Lô, số Đề của L ngày 21/6/2018, xét hành vi của B và Đ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với B và Đ.

Đối với những người khác mua số Lô, số Đề của L ngày 21/6/2018 nhưng L không biết tên, địa chỉ. Do vậy, Cơ quan điều tra, Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo L sau khi nghe quan điểm luận tội của đai diên Viên kiêm sat nhân dân huyện Gia Lâm, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận hành vi “Đánh Bạc” với mục đích sát phạt bằng tiền dưới hình thức mua bán số Lô, số Đề vào ngày 21/6/2018 và trực tiếp thanh toán tiền thắng, thua với khách. Tổng số tiền Vương Thị L dùng để đánh bạc là 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng) là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Vương Thị L: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vương Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định, Lời khai người liên quan và các biên bản, tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Với mục đích sát phạt bằng tiền tiền dưới hình thức mua bán số Lô, số Đề. Vương Thị L bắt đầu bán số Lô, số Đề từ ngày 19/6/2018 và tự chịu tiền thắng, thua với khách, sau khi đã bán số Lô, số Đề xong bị cáo không chuyển bảng Lô, bảng Đề cho ai. Bị cáo L quy định cách chơi lô, đề và tiền trả thưởng với khách là: Người mua số đề, mua một cặp số bất kỳ trong các cặp số từ 00,01,02, cho đến 99, nếu 2 số mà người chơi đề mua trùng với 2 cuối của kết quả giải xổ số đặc biệt gồm 5 số VD: 13579 (Kết quả xổ số Miền Bắc được mở thưởng vào hồi 18 giờ 00 phút cùng ngày) thì người chơi được trả gấp 80 lần số tiền mà họ đã mua số đó (1 điểm x 80) hay (1 ăn 80), trong đó có cả tiền gốc. Đối với số Lô đơn: Nếu 2 số mà người chơi lô mua trùng với 2 số cuối của tất cả các giải trong kết quả xổ số Miền Bắc kể cả giải Đặc biệt gồm 8 giải và 27 kết quả ra trong ngày thì người chơi được gấp 80 lần số tiền đã mua (1 điểm x 80) trong đó có cả tiền gốc, người mua 1 điểm lô phải trả cho bị cáo L là 23.000 đồng (Hai mươi B nghìn đồng), lô xiên 2 khách mua phải trả 10.000 đồng (Mười nghìn đồng)/1 điểm (đánh 2 con lô cùng 1 lúc thì sẽ gọi đó là đánh lô xiên 2), nếu trúng được bị cáo L trả 100.000 đồng; Lô xiên 3 khách mua phải trả 10.000 đồng (Mười nghìn đồng)/1 điểm (lô đánh 3 con lô cùng 1 lúc thì sẽ gọi đó là đánh xiên 3), nếu trúng người chơi được bị cáo L trả 400.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ 45 phút ngày 21/6/2018, bị cáo Vương Thị L đang ngồi ghi, bán số lô, số đề tại trước cửa nhà ở Thôn P 2, xã P, huyện G, Thành phố Hà Nội thì có Chu Văn B và Nguyễn Văn Đ vào hỏi mua, ghi các số Lô, số Đề cụ thể:

- Chu Văn B mua, ghi các số Lô, số Đề: Số lô 01x40 điểm và số Đề đầu 2 gồm (Các số từ 20 đến 29) và số Đề đầu 0 gồm (Các số từ 00 đến 09) mỗi số 100.000 đồng. Bị cáo L viết các con số vào bảng đề sau viết ra một tờ giấy gọi là cáp đề (là miếng bìa giấy nhỏ, hình chữ nhật) đưa cho B và nhận về số tiền 2.920.000 đồng của B.

- Nguyễn Văn Đ mua, ghi các số Lô, số Đề như sau: số Lô: 68 và 15 mỗi số 25 điểm; 50 điểm số Lô 86; 100.000 đồng số Đề 86; Số Đề 68 và 51 mỗi số 50.000 đồng. Bị cáo L viết các con số vào bảng đề sau viết ra một tờ giấy gọi là cáp đề (là miếng bìa giấy nhỏ, hình chữ nhật) đưa cho Đ và nhận về số tiền 2.500.000 đồng của Đ. Khi L đang nhận tiền của Đ thì bị tổ công tác Đội cảnh sát hình sự, Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng.

Ngoài ra, ngày 21/6/2018, bị cáo Vương Thị L đã bán số Lô, số Đề cho những người khác L không biết tên, tuổi, địa chỉ của những người này. Tổng số tiền L dùng để đánh bạc trái phép dưới hình thức mua bán số Lô, số Đề ngày 21/6/2018 được xác định là 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng), trong đó: Số tiền bán số Lô đơn là 4.945.000 đồng; Số tiền bán số Lô xiên 3 là 50.000 đồng; Số tiền bán số Đề là 4.503.000 đồng.

[3]. Tại bản kết luận giám định số 3820/C09-P5 ngày 17/8/2018 của Viện khoa học Hình sự - Bộ Công an kết luận: Chữ viết trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A4 so với chữ viết của Vương Thị L trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người viết ra.

[4]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 21/6/2018, tại nhà bị cáo Vương Thị L ở Thôn P 2, xã P, huyện G, Thành Phố Hà Nội, bị cáo Vương Thị L đã có hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức mua bán số Lô, số Đề thì bị Cơ quan Công an, huyện Gia Lâm kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và lập biên bản thu giữ vật chứng. Tổng số tiền của bị cáo Vương Thị L dùng vào việc đánh bạc trái phép ngày 21/6/2018 thể hiện qua các cáp ghi đề và bảng lô, đề thu giữ của bị cáo L là 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng). Bị cáo Vương Thị L khai nhận bản thân bị cáo trước đó từ ngày 19/6/2018 bị cáo đã ghi, mua bán số Lô, số Đề cho khách nhưng chưa ghi được cho ai. Bị cáo L không chuyển bảng Lô đề, hay ghi thuê số Lô, số Đề cho ai mà tự chịu trách nhiệm một mình trong việc thắng, thua với người chơi Lô, Đề. Ngoài lời khai của bị cáo L, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh hành vi của bị cáo L đánh bạc trái phép bằng hình thức mua, bán số Lô, số Đề trước đó. Do vậy, không có căn cứ để xem xét, kết luận bị cáo Vương Thị L có hành vi phạm tội nhiều lần. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đủ tuổi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi đánh bạc trái phép, sát phạt nhau với mục đích được thua bằng tiền dưới hình thức mua bán số Lô, số Đề vào ngày 21/6/2018 của bị cáo Vương Thị L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5]. Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiển sát: Khẳng định nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, truy tố bị cáo Vương Thị L ra trước Tòa án theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật, mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo nhận tội, khẳng định lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và nhận thức được hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6]. Xét tính chất vụ án: Đánh giá tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng nếp sống văn hóa mới, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng tới cuộc sống của các gia đình và hoạt động bình thường của xã hội vì bản thân những người chơi lô đề tinh thần luôn bị ám ảnh bởi những con số, sức khỏe giảm sút, tình cảm của người thân không còn, uy tín xã hội cũng không còn và nhiều trường hợp mắc nợ nần nhiều quá phải bỏ trốn, sống chui lủi. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

[7]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình để Cơ quan cảnh sát điều tra, điều tra kết thúc vụ án sớm, nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần cho bị cáo Vương Thị L hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 .

Về tình tiết tăng nặng, bị cáo L không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .

[8]. Về Áp dụng hình phạt đối với bị cáo Vương Thị L: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bản thân bị cáo có nhà ở, nơi cư trú rõ ràng, bản thân luôn thực hiên đầy đủ nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Do đó, cần cho bị cáo Vương Thị L được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm một phần hình phạt đối với bị cáo và cho bị cáo được tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát và giáo dục của Chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung đồng thời thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước và Pháp luật.

[9]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, lưu hồ sơ: 01 Cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Chu Văn B ngày 21/6/2018; 01 Cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Nguyễn Văn Đ ngày 21/6/2018; 02 Bảng ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho khách ngày 21/6/2018.

- Đối với số tiền 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng) bị cáo Vương Thị L đã giao nộp cho Cơ quan điều tra, Công an huyện Gia Lâm xét đây là số tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm do bị L cáo thu về từ việc mua bán số Lô, số Đề để đánh bạc trái phép vào ngày 21/6/2018 cần thiết phải tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[10]. Các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với Chu Văn B, Nguyễn Văn Đ là người mua số Lô, số Đề của L ngày 21/6/2018. Xét hành vi, và tổng số tiền của Chu Văn B và Nguyễn Văn Đ dùng để đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc đối với B và Đ với mức phạt tiền cho mỗi người là 200.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

- Đối với những người khác đã mua số Lô, số Đề của bị cáo L ngày 21/6/2018 nhưng L không biết tên, địa chỉ của những người này. Do vậy, Cơ quan Điều tra, Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý.

[11]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[12]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Vương Thị L phạm tội “Đánh bạc”

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Vương Thị L 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Vương Thị L cho UBND xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội, để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

- Tịch thu, lưu hồ sơ: 01 Cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Chu Văn B ngày 21/6/2018; 01 Cáp ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho Nguyễn Văn Đ ngày 21/6/2018; 02 Bảng ghi số Lô, số Đề Vương Thị L bán cho khách ngày 21/6/2018.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 9.498.000 đồng (Chín triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng).

(Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo biên lai thu tiền số 0001536 ngày 26/10/2018).

5. Áp dụng Điều 136; Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Bn thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, bi cao Vương Thị L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết đinh được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2018/HS-ST ngày 14/11/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:134/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về