Bản án 1339/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp ly hôn 

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1339/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 994/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 448/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 364/2019/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng P sinh năm 1981; Địa chỉ: 59/36 TP, P. 4, Q.5, Thành phố H.

2. Bị đơn: Nguyễn Thị Phương L, sinh năm 1982;

Địa chỉ: 32, D38 đường số 23 Lovera Park, xã P, huyện B, Tp.H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 01/8/2019, bản tự khai ngày 13/9/2019 và tại phiên tòa, ông Nguyễn Hoàng P trình bày:

Ông P và bà L tự quen biết, tìm hiểu nhau và bắt đầu kết hôn chung sống.

Ông bà có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân P.4, Quận 5, Thành phố H. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc. Đến khoảng năm 2016 thì ông bà phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bà L không có trách nhiệm, thiếu quan tâm, chăm lo cho gia đình. Ông và bà L đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Hiện nay ông không còn tình cảm gì với bà L, ông cảm thấy cuộc sống hôn nhân của ông bà không còn khả năng hàn gắn nên ông yêu cầu ly hôn với bà L.

Về con chung: Ông P trình bày ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Linh Đ, sinh ngày 24/6/2008 (giới tính nữ) và Nguyễn Phúc Minh H, sinh ngày 28/10/2016 (giới tính nữ). Khi ly hôn Ông P yêu cầu giao trẻ Đ và trẻ Hảo cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi trẻ 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông P xác nhận giữa ông và bà L không có tài sản chung hay bất kỳ khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị Phương L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Hoàng P đối với bà Nguyễn Thị Phương L.

+ Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Hoàng Linh Đ, sinh ngày 24/6/2008 (giới tính nữ) và Nguyễn Phúc Minh H, sinh ngày 28/10/2016 (giới tính nữ) cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận Ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng/trẻ.

Ông P có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

+ Về án phí: Ông P phải chịu án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1] Ông Nguyễn Hoàng P khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Phượng L. Đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[1.2] Bị đơn bà Nguyễn Thị Phương L cư trú tại địa bàn huyện Bình Chánh nên theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Bà Nguyễn Thị Phương L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt bà L là phù hợp với quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 54 Quyển số 01/2007 do Ủy ban nhân dân P.4, Q 5, Thành phố H cấp ngày 14/6/2007 thì ông Nguyễn Hoàng P và bà Nguyễn Thị Phương L là vợ chồng hợp pháp được pháp luật công nhận quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3.2] Bà L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án nêu rõ yêu cầu ly hôn của Ông P, được tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà L vắng mặt tại Tòa không có lý do, cũng không có văn bản trình bày ý kiến, yêu cầu của bà. Tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Bà L đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình và phải chịu hậu quả theo quy định pháp luật. Do đó Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.

[3.3] Căn cứ kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của Ủy ban nhân dân P.4, Q.5 và lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy đời sống chung vợ chồng của Ông P và bà L phát sinh nhiều mâu thuẫn từ năm 2016 vì bất đồng nhiều vấn đề trong cuộc sống. Bà L và Ông P đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Giữa Ông P và bà L đã không còn sự quan tâm, chăm sóc nhau và chăm lo cho cuộc sống gia đình, mâu thuẫn hôn nhân của ông bà đã đến mức trầm trọng.

[3.4] Tòa án đã nhiều lần triệu tập Ông P và bà L đến Tòa án để hòa giải, động viên ông bà hàn gắn quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên bà L không có mặt theo lịch triệu tập của Tòa án mà không có lý do, cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình. Điều này chứng tỏ bà L không có thiện chí hòa giải và không mong muốn hàn gắn quan hệ vợ chồng.

[3.5] Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”. Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa Ông P và bà L đã mâu thuẫn trầm trọng. Tuy mâu thuẫn giữa ông bà chưa được chính quyền địa phương hòa giải, chưa được gia đình nhắc nhở nhưng sự thật là giữa vợ chồng ông bà đã không còn sự thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; đời sống chung giữa Ông P và bà L không thể kéo dài thì mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Hoàng P là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.6] Về con chung: Ông Nguyễn Hoàng P xác nhận giữa ông và bà L có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Linh Đ, sinh ngày 24/6/2008 (giới tính nữ) và Nguyễn Phúc Minh H, sinh ngày 28/10/2016 (giới tính nữ). Hiện nay trẻ Đ và trẻ H đang sống cùng với bà L. Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Tại biên bản ghi nhận ý kiến trẻ Đ ngày 03/10/2019 thể hiện trẻ Đ đang thực tế chung sống với bà L và trẻ có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng mẹ. Khi ly hôn Ông P yêu cầu giao trẻ Đ và trẻ H cho bà L tiếp tục nuôi dưỡng.

[3.7] Xét thấy ý kiến của Ông P là tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của trẻ Đ; nhằm đảm bảo cho sự ổn định về tâm lý, sự phát triển toàn diện của trẻ Đ và trẻ H, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao trẻ Đ và trẻ H cho bà L nuôi dưỡng.

[3.8] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên…”. Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Đan và trẻ H là trách nhiệm chung của cả Ông P và bà L. Để đảm bảo cho sự phát triển về mọi mặt của trẻ Đ và trẻ H, Hội đồng xét xử nhận thấy không giao con chung cho Ông P trực tiếp nuôi dưỡng nhưng cần phải buộc Ông P cấp dưỡng nuôi con. Ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi trẻ 2.000.000 đồng/tháng. Bà L vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và không có văn bản trình bày ý kiến về vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Do đó Tòa án ghi nhận sự tự nguyện của Ông P cấp dưỡng nuôi con chung mỗi trẻ 2.000.000 đồng/tháng vào ngày 15 (mười lăm) dương lịch hàng tháng cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Các bên giao nhận tiền cấp dưỡng tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền. Trường hợp Ông P chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015. Ông Nguyễn Hoàng P có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[3.9] Về tài sản chung và nợ chung: Ông P xác nhận giữa ông và bà L không có tài sản chung; ông bà cũng không có bất kỳ khoản nợ chung nào nên ông không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung và vấn đề nợ chung. Bà L vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung và nợ chung. Do đó Tòa án không xem xét, giải quyết vấn đề tài sản chung và nợ chung trong vụ án này. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp thì sẽ được xem xét bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông Nguyễn Hoàng P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 và Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự;

- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hoàng P được ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 54 Quyển số 01/2007 do Ủy ban nhân dân P 4, Quận 5, Thành phố H cấp ngày 14/6/2007 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Hoàng Linh Đ, sinh ngày 24/6/2008 (giới tính nữ) và Nguyễn Phúc Minh H, sinh ngày 28/10/2016 (giới tính nữ) cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Ông P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi trẻ 2.000.000 đồng/tháng vào ngày 15 (mười lăm) dương lịch hàng tháng cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Các bên giao nhận tiền cấp dưỡng tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền. Trường hợp Ông P chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.

Ông Nguyễn Hoàng P có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Tòa án không đặt ra để giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Hoàng P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn và 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà Ông P đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002827 ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông P phải nộp thêm 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1339/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:1339/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về