Bản án 133/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 133/2019/HSST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 130/2019/HSST ngày 17 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐỨC N, sinh năm 1984; HKTT: Tổ X, phường Y, quận Z, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: Nguyễn Đức H; con bà: Nguyễn Thị Hồng X. Vợ: Lương Thị Huyền Tr, có 01 con sinh năm 2009. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 579 ngày 14/10/2018 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo 01 tiền sự (năm 2004 cai nghiện bắt buộc) và 04 tiền án.

- Bản án số 281/HSST/ ngày 14/11/2003, Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xử 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội Cướp giật tài sản. (đã được xóa án tích)

- Bản án số 233/HSST/ ngày 16/9/2009, Tòa án nhân dân Quận Ba Đình xử 02 năm 6 tháng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. (đã được xóa án tích)

- Bản án số 15/HSST/ ngày 27/02/2013, Tòa án nhân dân Quận Long Biên xử 15 tháng về tội Trộm cắp tài sản. (đã được xóa án tích)

- Bản án số 07/HSST/ ngày 08/01/2016, Tòa án nhân dân Quận Long Biên xử 26 tháng về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản trộm cắp 2.200.000 đồng) và phải nộp 200.000 đồng án phí. Bị cáo ra trại ngày 21/12/2017. (chưa được xóa án tích)

Bị cáo đầu thú ngày 08/3/2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt)

- Bị hại: Công ty X; trụ sở: Ngách X, đường Y, phường Z, quận K, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quốc V– Chức vụ: Giám đốc Công ty (Vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Xuân M, sinh năm 1992; HKTT: Xóm X, xã Y, huyện Z, tỉnh K; hiện đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 6 Hà Nội. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 20/8/2018, sau khi NGUYỄN ĐỨC N cùng Đỗ Xuân M, SN 1992, HKTT: Xóm X, xã Y, huyện Z, tỉnh K cùng sử dụng chung ma túy tại khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh xong, N điều khiển xe máy BKS 37V1-8795 chở M về nhà ở của N. Khi đến khu vực đường tàu thuộc tổ 9, phường Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, N phát hiện thấy nhiều khoang sắt hàng rào bảo vệ đường sắt của Xí nghiệp xây lắp và kinh doanh dịch vụ - Chi nhánh Công ty X không ai trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp. N rủ M tham gia, M đồng ý. N và M cùng khiêng 03 khoanh hàng rào loại sắt đặc (14x14mm, kích thước 88x110cm) và 01 khoang hàng rào loại sắt đặc (14x14mm, kích thước 96x110cm) để lên xe máy. N điều khiển xe còn M ngồi phía sau giữ số sắt vừa trộm cắp rồi điều khiển lên khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh để mang đi tiêu thụ. Khi cả hai đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm thì bị Tổ tuần tra kiểm soát trung đoàn cảnh sát cơ động, Công an thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính. Tại đây, N và M đã thừa nhận hành vi trộm cắp các khoang sắt trên. Tổ công tác đã lập biên bản và đưa N, M về trụ sở công an đồn Bắc Đuống, huyện Gia Lâm, bàn giao đối tượng cùng tang vật cho Công an phường Đức Giang giải quyết theo thẩm quyền. Tang vật thu giữ của N gồm: 04 khoang hàng rào sắt, 01 xe máy kiểu dáng Dream đeo BKS 37V-8759, 01xe máy kiểu dáng Dream đã cũ, BKS 37V1-8759 SK LLCXCGL3311002138, SM: LCT50 FM 602160129, 01 điện thoại nhãn hiệu BUK màu đen có số IMEI 1: 980011002797364; IMEI 2: 98001002857960 đã qua sử dụng, 01 đèn pin màu đỏ đen không có nhãn hiệu. Thu giữ của M 01 chiếc điện thoại Masstel màu xanh có số IMEI 1: 3521210801197203; IMEI 2: 2302121080197211 đã qua sử dụng.

Tại Kết luận định giá số 109 ngày 26/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận: 03 khoang hàng rào loại sắt đặc (14x14mm, kích thước 88x110cm) trị giá 1.160.000 đồng và 01 khoang hàng rào loại sắt đặc (14x14mm, kích thước 96x110cm) trị giá 420.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 1.580.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, N khai nhận như trên phù hợp với lời khai của M. Sau khi khởi tố bị can N, cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Sau đó, N bỏ trốn khỏi nơi cư trú nên Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và quyết định truy nã. Ngày 08/3/2019, N đến công an phường Gia Thụy đầu thú vì vậy Cơ quan điều tra quyết định đình nã, phục hồi điều tra vụ án và bị can. Tại cơ quan điều tra, N đã khai nhận toàn bộ hành vi cùng M trộm cắp tài sản như đã nêu trên.

Tại Bản cáo trạng số 139/CT-VKS-LB ngày 15/05/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố NGUYỄN ĐỨC N về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo NGUYỄN ĐỨC N đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa như sau: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa; xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 03 khoang hàng rào loại sắt đặc (14x14mm, kích thước 88x110cm) và 01 khoang hàng rào loại sắt đặc (14x14mm, kích thước 96x110cm) của Xí nghiệp xây lắp và kinh doanh dịch vụ - Chi nhánh Công ty X có tổng giá trị là 1.580.000 đồng. Mặc dù, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng nhân thân bị cáo có 01 tiền án năm 2016 về tội trộm cắp tài sản, tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty X chưa được xóa án tích. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo ra đầu thú, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo NGUYỄN ĐỨC N mức án từ 18 đến 20 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, cơ quan CSĐT- Công an Quận Long Biên ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho người đại diện theo ủy quyền của bị hại toàn bộ tài sản trộm cắp. Bị hại đã nhận đầy đủ tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cho thi hành trả bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu BUK màu đen có số IMEI 1: 980011002797364; IMEI 2: 98001002857960 đã qua sử dụng, 01 đèn pin màu đỏ đen không có nhãn hiệu do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Trả lại M 01 chiếc điện thoại Masstel màu xanh có số IMEI 1: 3521210801197203; IMEI 2: 2302121080197211 đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Dream đeo BKS 37V-8759, SK: 3311002138, SM: 02160129 mà N sử dụng làm phương tiện phạm tội, cơ quan điều tra tiến hành giám định. Tại bản kết luận giám định số 6611/C09-P2 ngày 07/12/2018 kết luận: Số khung 3311002138, số máy 02160129 của chiếc xe máy trên là số nguyên thủy. Tiến hành tra cứu số khu số máy xác định xe máy trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Tiến hành tra cứu xác minh theo BKS: 37V1-8759, xác định đăng ký chính chủ là của ông Lê Văn H, sinh năm 1968, HKTT: Làng X, xã Y, huyện z, tỉnh V nhưng xe mang nhãn hiệu Wave Alpha có SM: 544258, SK: 342514. Ông H không sử dụng và cho con gái là chị Lê Thị Thu H, sinh năm 1993 làm phương tiện đi lại nhưng đã bị trộm cắp tại địa bàn xã Kim Chung, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tiến hành tra cứu xác minh theo số khung 3311002138, xác định xe có kiểu dáng xe Dream nhưng gắn BKS 33K9-6804, có SM: 01187438 và đăng ký chính chủ là của anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1976, HKTT: Xã X, huyện Y, Hà Nội. Do không có nhu cầu sử dụng, năm 2002 anh V đã bán chiếc xe máy trên cho 01 người không quen biết. Tiến hành tra cứu xác minh theo số máy 02160129 thì không tìm thấy dữ liệu tra cứu theo số máy trên. Quá trình điều tra, N khai mượn của đối tượng tên C (không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể) ở khu vực Chùa Dận, Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. Vì vậy, Cơ quan điều tra tách chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau là có căn cứ phù hợp quy định của pháp luật.

Đối với hành vi của Đỗ Xuân M, trong quá trình điều tra khai nhận cùng Nam thực hiện hành vi trộm cắp 04 khoang sắt bảo vệ đường tàu. Nhân thân M có 01 tiền án năm 2013 về tội Cướp giật tài sản đã được xóa án tích, tài sản trộm cắp cùng Nam lần này có giá trị dưới 2.000.000 đồng, vì vậy hành vi của M không cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Công an quận Long Biên ra quyết định xử phạt hành chính đối với M là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

Nói lời sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ ngày 20/8/2018, tại khu vực đường tàu thuộc tổ 9 phường Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, NGUYỄN ĐỨC N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 03 khoang hàng rào loại sắt đặc trị giá 1.160.000 đồng và 01 khoang hàng rào loại sắt đặc trị giá 420.000 đồng của Xí nghiệp xây lắp và kinh doanh dịch vụ - Chi nhánh Công ty X. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 1.580.000 đồng. Mặc dù, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng nhân thân bị cáo có 01 tiền án năm 2016 về tội trộm cắp tài sản, tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty X chưa được xóa án tích. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; làm mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra. Bị cáo có 01 tiền sự và 04 tiền án, trong đó 01 tiền sự và 03 tiền án mặc dù đã được xóa, Hội đồng xét xử xác định bị cáo có nhân thân xấu. Căn cứ theo tính chất tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một hình phạt tù nghiêm khắc trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo ra đầu thú, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, cơ quan CSĐT- Công an Quận Long Biên ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho người đại diện theo ủy quyền của bị hại toàn bộ tài sản trộm cắp. Bị hại đã nhận đầy đủ tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Cho thi hành trả bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu BUK màu đen có số IMEI 1: 980011002797364; IMEI 2: 98001002857960 đã qua sử dụng, 01 đèn pin màu đỏ đen không có nhãn hiệu do không liên quan đến hành vi tội phạm nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Trả lại M 01 chiếc điện thoại Masstel màu xanh có số IMEI 1: 3521210801197203; IMEI 2: 2302121080197211 đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Dream đeo BKS 37V-8759, SK: 3311002138, SM: 02160129 mà Nam sử dụng làm phương tiện phạm tội, cơ quan điều tra tiến hành giám định. Tại bản kết luận giám định số 6611/C09-P2 ngày 07/12/2018 kết luận: Số khung 3311002138, số máy 02160129 của chiếc xe máy trên là số nguyên thủy. Tiến hành tra cứu số khu số máy xác định xe máy trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Tiến hành tra cứu xác minh theo BKS: 37V1-8759, xác định đăng ký chính chủ là của ông Lê Văn H, sinh năm 1968, HKTT: Làng X, xã Y, huyện z, tỉnh V nhưng xe mang nhãn hiệu Wave Alpha có SM: 544258, SK: 342514. Ông H không sử dụng và cho con gái là chị Lê Thị Thu H, sinh năm 1993 làm phương tiện đi lại nhưng đã bị trộm cắp tại địa bàn xã Kim Chung, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tiến hành tra cứu xác minh theo số khung 3311002138, xác định xe có kiểu dáng xe Dream nhưng gắn BKS 33K9-6804, có SM: 01187438 và đăng ký chính chủ là của anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1976, HKTT: Xã X, huyện Y, Hà Nội. Do không có nhu cầu sử dụng, năm 2002 anh Viên đã bán chiếc xe máy trên cho 01 người không quen biết. Tiến hành tra cứu xác minh theo số máy 02160129 thì không tìm thấy dữ liệu tra cứu theo số máy trên. Quá trình điều tra, Nam khai mượn của đối tượng tên C (không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể) ở khu vực Chùa Dận, Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. Vì vậy, Cơ quan điều tra tách chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau là có căn cứ phù hợp quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên đề nghị áp dụng hình phạt tù là hình phạt chính, không áp dụng hình phạt bổ sung, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Đối với hành vi của Đỗ Xuân M, trong quá trình điều tra khai nhận cùng Nam thực hiện hành vi trộm cắp 04 khoang sắt bảo vệ đường tàu. Nhân thân M có 01 tiền án năm 2013 về tội Cướp giật tài sản đã được xóa án tích, tài sản trộm cắp cùng N lần này trị giá 1.580.000 đồng vì vậy hành vi của M không cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Công an quận Long Biên ra quyết định xử phạt hành chính đối với M là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo NGUYỄN ĐỨC N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo NGUYỄN ĐỨC N 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 08/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả bị cáo NGUYỄN ĐỨC N 01 điện thoại nhãn hiệu BUK màu đen có số IMEI 1: 980011002797364; IMEI 2: 98001002857960 đã qua sử dụng, 01 đèn pin màu đỏ đen không có nhãn hiệu nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Trả lại anh Đỗ Xuân M 01 chiếc điện thoại Masstel màu xanh có số IMEI 1:

3521210801197203; IMEI 2: 2302121080197211 đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội. (Tất cả vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/6/ 2019)

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.  Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

366
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:133/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về