Bản án 133/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 133/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 601/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1973. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H, xã Đ, huyện H, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Bà Lê Thị G, sinh năm 1970. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H, xã Đ, huyện H, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 17 tháng 5 năm 2019 và những lời khai tiếp theo trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn L trình bày: Ông và bà Lê Thị G chung sống với nhau vào năm 1990, không có đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, dù đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành. Ông bà đã ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên ông yêu cầu ly hôn với bà Lê Thị G.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Anh T, sinh ngày 23/8/2001. Khi ly hôn ông đồng ý để bà G nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Anh T. Ông không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 18/6/2019, ông Nguyễn Văn L có đơn xin được vắng mặt tại các phiên tòa xét xử vụ án do bận việc gia đình, không có điều kiện tham gia phiên tòa.

Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải, bị đơn bà Lê Thị G trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Văn L về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn; thời gian mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn, thời gian ly thân và con chung. Ông bà chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn. Nay, ông L xin ly hôn bà đồng ý.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Anh T, sinh ngày 23/8/2001. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là Nguyễn Anh T, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngày 18/6/2019, bà G có đơn xin được vắng mặt tại các phiên tòa xét xử vụ án do bận việc gia đình, không có điều kiện tham gia phiên tòa.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự thống nhất được toàn bộ nội dung, các chứng cứ đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng do ông L và bà G chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nên Tòa án không thể ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành cho các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn L khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Lê Thị G, bà G hiện có hộ khẩu thường trú tại ấp H, xã Đ, huyện H, tỉnh Long An và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn L và bị đơn bà Lê Thị G vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị G chung sống với nhau vào năm 1990 nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông L và bà G không được xem là hôn nhân hợp pháp, đã vi phạm vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, ông L và bà G phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Ông L và bà G đã ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay. Tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải, ông L và bà G đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn và đồng ý ly hôn. Do ông L và bà G chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị G là vợ chồng.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Ông L và bà G có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Anh T, sinh ngày 23/8/2001 (đang sống với bà G). Tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải, ông L và bà G thống nhất bà G được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Anh T. Đối với Nguyễn Thị Ngọc C hiện nay đã trưởng thành nên không đề cập đến. Xét thấy việc thỏa thuận nuôi con chung của ông bà với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Bà G không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị G thống nhất trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét

[6]. Về nợ chung: Ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị G thống nhất trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Ông Nguyễn Văn L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không công nhận ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị G là vợ chồng.

- Về con chung: Ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị G có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Anh T, sinh ngày 23/8/2001. Bà Lê Thị G được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Anh T; ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì bà G không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004881 ngày 11/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:133/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về