Bản án 133/2019/HC-PT ngày 20/08/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 133/2019/HC-PT NGÀY 20/08/2019 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Vào ngày 20 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 143/2019/TLPT-HC ngày 08 tháng 5 năm 2019 về: “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2019/HC-ST ngày 22-3-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 847/2019/QĐ-PT ngày 29 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn R - Sinh năm: 1947

Trú tại: Thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Thanh T - Sinh năm: 1973; địa chỉ: Thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định. Có mặt.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn D – Chủ tịch. Vắng mặt.

 Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Ngọc T - Phó Chủ tịch (Theo Giấy ủy quyền số 02/GUQ-UBND ngày 06/4/2018). Vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Ngọc M - Sinh năm: 1958; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị T1 - Sinh năm: 1964; có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ông Nguyễn Phi H - Sinh năm: 1990; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Phi P - Sinh năm: 1982; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Thanh T - Sinh năm: 1973; có mặt.

- Bà Nguyễn Thị Út H - Sinh năm: 1991; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Ánh H2 - Sinh năm: 1971; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ánh H2:

Đào Thị Kim K; sinh năm 1968; địa chỉ: huyện P, tỉnh Bình Định (theo văn bản ủy quyền ngày 19/8/2019); có mặt.

- Bà Nguyễn Thị Thanh D - Sinh năm: 1979; vắng mặt.

Đồng trú tại: Thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H, ông P, bà H, bà D: Nguyễn Thị Thanh T - Sinh năm: 1973; địa chỉ: Thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định (theo văn bản ủy quyền ngày 16/8/2019); có mặt.

4. Người kháng cáo: Người khởi kiện - ông Nguyễn Văn R.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, người khởi kiện ông Nguyễn Văn R trình bày:

Thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1m2 tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định có nguồn gốc là của cha mẹ tặng cho vợ chồng ông và vợ chồng ông đã được Ủy ban nhân dân huvện P, tỉnh Bình Định (viết tắt là UBND huyện P) cấp Giấy chứng nhận số CH10610 ngày 01/3/2012. Gia đình ông quản lý, sử dụng thửa đất nói trên ổn định, không lấn chiếm, tranh chấp với ai. Năm 2013, vợ chồng ông lập hợp đồng tặng cho con là Nguyễn Phi P một phần- thửa đất nói trên với diện tích là 702,9m2 và đã được UBND huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hừu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CHI11059 ngày 14/01/2014. Năm 2014, vợ chồng ông lập hợp đồng tặng cho con là Nguyễn Thị Thanh T một phần, thửa đất nói trên với diện tích là 457,14m2 và đã được UBND huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gán liền với đất số CH11182 ngày 06/7/2015.

Năm 2015, ông Nguyễn Văn A ủy quyền cho ông Nguyễn Ngọc M có đơn tranh chấp quyền sử dụng đất với gia đình ông; ngày 20/01/2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định (Chủ tịch UBND huyên P) ban hành Quyết định số 319/QĐ-UBND về việc không công nhận nội dung đơn của ông Ấm khiếu nại việc UBND huyện P cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo dự án VLAP cho hộ ông bao trùm thửa đất ông Ấm đang canh tác.

Tuy nhiên, không hiểu lý do tại sao thì ngày 22/02/2017, UBND huyện P ban hành Thông báo số 17/TB-UBND về việc thu hồi giấy chứng nhận quvền sử dụng đất cấp cho ông và ngày 14/6/2017, UBND huyện P ban hành Quyết định số 4241/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận số CH10610 ngày 01/3/2012 do UBND huyện P cấp cho hộ gia đình ông đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1m2 tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

Việc UBND huyện P ban hành các quyết định nói trên đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông; do đó, vào các ngày 16/11/2017 và ngày 15/01/2018, ông đã có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Thông báo số 17/TB-UBND ngày 22/02/2017 và Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của UBND huyện P.

Ngày 05/7/2018, ông đã có yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc hủy Thông báo số 17/TB-UBND ngày 22/02/2017 của UBND huyện P.

Bên cạnh các đơn khởi kiện vụ án hành chính, bản sao các quyết định hành chính bị kiện, người khởi kiện còn cung cấp cho Tòa án một số tài liệu, chứng cứ khác có liên quan đến yêu cầu khởi kiện. Ngoài ra, người khởi kiện không tự mình thu thập được bất kỳ chứng cứ nào khác và không có yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

Người đại diện theo ủy quvền của người bị kiện ông Hà Ngọc Tân — Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định trình bày:

Thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ thì hộ ông Nguyễn Văn R đã được UBND huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01243/QSDĐ ngàỵ 16/5/2001 vởi tổng diện tích được cấp là 3.558m2; trong đó, diện tích đất thổ cư thuộc thửa số 5, tờ bản đồ số 9 (bản đồ giải thửa 299/TTg) tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định là 1.384m2 (bao gồm 200m2 đất ở và 78m2 đất vườn được cấp theo giấy chứng nhận quvền sử dụng đất nói trên; phần diện tích còn lại 1.106m2 thuộc đất quy hoạch hành lang giao thông Quốc lộ 1A).

Năm 2012, thửa số 5, tờ bản đồ số 9 (bản đồ giải thửa 299/TTg) cấp đổi; thành thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39 và hộ ông R đã được UBND huyện P cấp đổi Giấy chứng nhận số CH10610 ngày 01/3/2012 đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1m2 (bao gồm 200m2 đất ở và 2.838,1m2 đất trồng cây hàng năm khác; trong đó có 932,2m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông); diện tích được cấp đổi chênh lệch so với diện tích được cấp theo Giấy chứng nhận quvền sử dụng đất sổ 01243/QSDĐ ngày 16/5/2001 là tăng 2.760,1m2 và tăng 1.654,1m2 so với diện tích thửa đất theo bản đồ giải thửa 299/TTg.

Ngày 05/7/2016, Chủ tịch UBND huyện P ban hành Quvết định số 4836/QĐ-UBND về việc thành lập Tổ công tác rà soát lại toàn bộ hồ sơ vụ việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo dự án Vlap cho ông R và việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông A với ông R. Tại Báo cáo số 77/BC-TXM ngày 18/7/2016 của Thanh tra huyện P đã kết luận và kiến nghị như sau:

- Việc cấp đổi chứng nhận quyền sử dụng đất theo Dự án Vlap cho hộ ông R đối với thửa số 5, tờ bản đồ số 9 (bản đồ giải thửa 299/TTg), diện tích 278m2 bao gồm 200m2 đất ở và 78m2 đất vườn (Tổng diện tích thửa đất này là 1.384m2, diện tích cấp giấy chứng nhận là 278m2, diện tích còn lại 1.106m2 thuộc đất quy hoạch hành lang giao thông Quốc lộ 1A); nay được cấp đổi thành thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1m2 (bao gồm 200m2 đất ở và 2.838,1 m2 đất trồng cây hàng năm khác; trong đó có 932,2m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông); có sự chênh lệch giữa diện tích cấp đổi giấy chứng nhận theo dự án Vlap so với diện tích giao quyền theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ là 1.654,1 m2, ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh Bình Định (Viết tắt là UBND xã M) không tìm hiểu nguyên nhân để xử lý mà để đơn vị đo đạc tự ý đề nghị cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông R.

- Công ty B mà trực tiếp thi công là Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất của tỉnh, UBND xã M thực hiện không đúng quy trình, không giải trình việc tăng diện tích mà cấp giấy chứng nhận quvền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn R.

- Kiến nghị UBND huyện P thu hồi giấy chứng nhận thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39 (Vlap) đã cấp cho ông R, tiến hành đo đạc cấp đối giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo nguyên trạng ông R đang sử dụng.

Trên cơ sở báo cáo nói trên của Thanh tra huyện P, ngày 14/6/2017, UBND huyện P ban hành Quvết định số 4241/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận số CH10610 ngày 01/3/2012 do UBND huyện P cấp cho hộ gia đình ông đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1m2 tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

Việc UBND huyện P ban hành quyết định nói trên là đúng quy định; do đó, UBND huyện P không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của UBND huyện P.

Ngoài ra, UBND huyện P không có trình bày hoặc yêu cầu nào khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy han nhân dân xã M, huyện P, tỉnh Bình Định trình bày:

UBND xã M thống nhất với nội dung trình bày của UBND huyện P.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của UBND huyện P thì UBND xã M không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, UBND xã M không có trình bày hoặc yêu cầu độc lập nào khác.

Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Phi h, ông Nguyễn Phi P, bà Nguyễn Thị Thanh T, bà Nguyễn Thị Út H, bà Nguyễn Thị Ánh H2, bà Nguyễn Thị Thanh D là ông Nguyễn Văn R trình bày:

Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Phi H, ông Nguyễn Phi P, bà Nguyễn Thị Thanh T, bà Nguyễn Thị Út H, bà Nguyễn Thị Ánh H2, bà Nguyễn Thị Thanh D, ông thống nhất như nội dung trình bày và yêu cầu khởi kiện nói trên của ông.

Ngoài ra, ông không có trình bày hoặc yêu cầu độc lập nào khác.

Người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc M và bà Nguyễn Thị T1 thống nhất trình bày:

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của UBND huyện P thì ông bà không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, ông bà không có trình bày hoặc yêu cầu độc lập nào khác.

Với các nội dung trên, Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2019/HC-ST ngày 22-3-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

Căn cứ vào quy định tại Điều 30; Điều 32; Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ vào quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Đất đai ngày 29/11/2013; khoản 4, khoản 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một sô điều của Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;

Căn cứ quy định tại Điều 29 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bỉnh Định về việc thu hồi Giấy chứng nhận số CH10610 ngày 01/3/2012 do Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định cấp cho hộ gia đình ông R đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,lm2 tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Trong thời hạn luật định, Ngày 04/04/2019, người khởi kiện ông Nguyễn Văn R kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa, người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, không thay đổi, bổ sung, không rút kháng cáo; các đương sự không hòa giải được với nhau về việc giải quyết vụ án, yêu cầu Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giải quyết.

Xét nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Văn R yêu cầu hủy Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định về việc thu hồi Giấy chứng nhận số CH 10610 ngày 01/3/2012 do Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định cấp cho hộ gia đình ông R đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1 m2 tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

Thì thấy:

[1]. Nguồn gốc đất hộ ông Nguyễn Văn R sử dụng:

Tại Quyết định số 319/QĐ-UBND ngày 20/01/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P xác định: Nguồn gốc thửa đất số 5, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg) có nguồn gốc của ông Nguyễn Quang C (cha vợ ông Nguyễn Văn R) mua lại của bà Lê Thị Đ. Khi Nhà nước thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, hộ ông Nguyễn Văn R đã được UBND huyện P, tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01243/QSDĐ ngày 16/5/2001, diện tích 1.384 m2; trong đó, bao gồm 200 m2 đất ở và 78 m2 đất vườn và 1.106 m2 thuộc đất quy hoạch hành lang giao thông Quốc lộ 1A.

[2]. Ngày 01/3/2012, hộ ông Nguyễn Văn R được Ủy ban nhân dân huyện P cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất đối với thửa đất nêu trên, từ thửa số 5, tờ bản đồ số 9 thành thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,l m2 (bao gồm 200m2 đất ở và 2.838,l m2 đất trồng cây hàng năm khác; trong đó có 932,2 m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông) theo Giấy chứng nhận số CH 10610.

Cũng theo quyết định số 319/QĐ-UBND ngày 20/01/2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P xác định: qua thẩm tra, xác minh hồ sơ và thực địa cho thấy việc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo dự án Vlap cho hộ ông Nguyễn Văn R đối với thửa đất số 5, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg) nay là thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39 (bản đồ địa chính đo đạc theo Dự án Vlap) có sự biến động về diện tích nhưng ranh giới thửa đất giữa hai tờ bản đồ không thay đổi.

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 18 Nghị định 84/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định: “Trường hợp ranh giới thửa đất hiện nay không thay đổi so với thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề mà diện tích đo đạc thực tế khi cấp Giấy chứng nhận nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì Giấy chứng nhận được cấp theo diện tích đo đạc thực tế; người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích nhiều hơn so với diện tích đất ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất”.

Như vậy, việc Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn R là phù hợp với quy định của pháp luật.

Sau khi được Nhà nước cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 3.038,1 m2. Năm 2013, ông Nguyễn Văn R tặng cho con là ông Nguyễn Phi P 702,9 m2 đất và đã được UBND huyện Phù Mỹ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông P vào ngày 14/02/2014. Năm 2014, ông R tiếp tục tặng cho con là bà Nguyễn Thị Thanh Thúy 457,14m2 đất và đã được UBND huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Thúy vào ngày 06/7/2015.

[3]. Ngày 05/7/2016, Chủ tịch UBND huyện P ban hành Quyết định số 4836/QĐ-UBND về việc thành lập Tổ công tác rà soát lại toàn bộ hồ sơ vụ việc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo dự án Vlap đối với hộ gia đình ông R. Tại Báo cáo số 77/BC-TXM ngày 18/7/2016, Thanh tra huyện P kết luận việc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình ông R theo dự án Vlap không đúng trình tự, thủ tục và diện tích đất tăng thêm chưa được làm rõ nên kiến nghị UBND huyện P thu hồi Giấy chứng nhận thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39 (theo dự án Vlap) đã cấp cho hộ gia đình ông R, tiến hành đo đạc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo nguyên trạng hộ gia đình ông R đang sử dụng.

Sau khi có kết luận nêu trên, UBND huyện P đã ban hành Thông báo số 17/TB-UBND ngày 22/02/2017 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình ông R.

Ngày 12/4/2017, Chủ tịch UBND huyện P đã ban hành Công văn số: 259/UBND-TTr Về việc trả lời Đơn Khiếu nại Thông báo thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn R.

Như phân tích ở trên, xét nguồn gốc thửa đất hộ gia đình ông R quản lý, sử dụng là của cha mẹ vợ ông R là ông Nguyễn Quang C, bà Nguyễn Thị Cường chết để lại cho gia đình ông R quản lý, sử dụng từ trước năm 1975 cho đến nay. Quá trình cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo dự án Vlap có sự biến động tăng nhưng giới cận hình thể thửa đất không thay đổi, Việc Ủy ban nhân dân huyện P cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn R tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 10610 ngày 01/3/2012 tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,l m2 (bao gồm 200m2 đất ở và 2.838,l m 2đất trồng cây hàng năm khác; trong đó có 932,2 m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông) là đúng với quy định của pháp luật.

Nên Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 về việc thu hồi Giấy chứng nhận, số: CH 10610 ngày 01/3/2012 do Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định cấp cho hộ gia đình ông R đối với thửa đất số 55, tờ bản đồ số 39, diện tích 3.038,1 m2 tọa lạc tại xã M, huyện P, tỉnh Bình Định là không đúng pháp luật. Nên yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R là có căn cứ.

Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn R; sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R.

[4]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn R. Sửa Bản án sơ thẩm theo hướng hủy quyết định hành chính số 4241/QĐ- UBND ngày 14/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định. Đề nghị này là có căn cứ, đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5]. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn R không phải chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm (được hoàn trả lại);

Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định phải chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm.

[6] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo của người khởi kiện – ông Nguyễn Văn R được chấp nhận, nên ông R không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm (được hoàn trả lại).

Vì các lẽ trên;

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

Chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn R. Sửa quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2019/HC-ST ngày 22/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

Căn cứ: Điều 29, Điều 30, Điều 32; Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194 Luật tố tụng hành chính;

Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; khoản 4, khoản 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;

Căn cứ Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai;

Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn R về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

2. Hủy Quyết định số 4241/QĐ-UBND ngày 14/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 10610 ngày 01/3/2012 do Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn R.

3. Về án phí hành chính sơ thẩm:

Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn R không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, được hoàn trả lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng theo Biên lai số: 0009470 ngày 22/01/2018 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

4. Về án phí hành chính phúc thẩm:

Ông Nguyễn Văn R không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Hoàn trả lại 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai số 0003634 ngày 12/4/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

5. Các quyết định khác của Bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 20/8/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

536
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2019/HC-PT ngày 20/08/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu:133/2019/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về