Bản án 133/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 133/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 345/2018/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 4 năm 2018 về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 383/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Bảo Tr, sinh năm: 1984 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp Tân Long C, xã Tân T, huyện Đ, tỉnh Y.

- Bị đơn: Anh Trương Như Quang Nh, sinh năm: 1977 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp 6, xã Tân Th, thành phố C, tỉnh Y.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, quá trình hòa giải vụ án và tại phiên tòa, chị Trương Bảo Tr trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Trương Như Quang Nh xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống vợ chồng vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân T, huyện Đ, tỉnh Y. Hôn nhân được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục, tập quán và được gia đình hai bên chấp thuận.

Quá trình chung sống, chị Tr cho rằng cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân do anh Nh không biết quan tâm, chia sẻ, bảo vệ cuộc sống gia đình với chị mà còn dùng lời lẽ sỉ vã, xem thường chị và thờ ơ khi gia đình bên chồng đàn áp chị. Từ đó, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, bất hòa, tình cảm phai nhạt nên chị và anh Nh không còn chung sống vợ chồng khoảng tháng 9/2017 đến nay. Do đó, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nh.

- Về con chung: Chị Tr xác định giữa chị và anh Nh có 01 con chung tên Trương Kim A, sinh ngày 31/3/2017, hiện cháu Kim A đang chung sống với chị Tr. Khi ly hôn, chị Tr yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con; nếu anh Nh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con thì chị đồng ý.

- Về tài sản chung: Chị Tr xác định vợ, chồng chị không có tài sản chung nên chị không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Tr khai giữa vợ, chồng chị không thiếu nợ ai và không ai nợ lại vợ, chồng chị.

* Tại bản tự khai ngày 04/6/2018, anh Nh trình bày: Về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, thời gian chung sống, con chung, tình trạng tài sản chung, nợ chung đúng như chị Tr trình bày. Về mâu thuẫn thì anh xác định tháng 12/2016, giữa vợ anh với gia đình bên anh đã xảy ra mâu thuẫn. Tuy nhiên, anh cho rằng vẫn còn thương vợ và cần có thêm thời gian để cảm thông, chia sẻ nhằm hàn gắn tình cảm vợ, chồng và nuôi dạy con cái nên anh không đồng ý ly hôn với chị Tr. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn và giao con cho chị Tr nuôi thì anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ.

Tại biên bản hoà giải ngày 07/6/2018, anh Nh thống nhất ly hôn với chị Tr, đồng ý giao con cho chị Tr nuôi, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung không có. Ngày 12/6/2018, anh Nh nộp đơn thay đổi ý kiến thoả thuận trong biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành nêu trên với lý do anh còn thương vợ, con nên muốn đoàn tụ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Mặc dù anh Nh có đơn thay đổi ý kiến thỏa thuận ly hôn với chị Tr và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử vụ án ly hôn nhưng anh Nh vẫn không có mặt, cũng không có ý kiến phản hồi hay đưa ra giải pháp gì để vợ, chồng đoàn tụ. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Nh theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về loại việc tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Tranh chấp giữa chị Tr và anh Nh là tranh chấp về ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Trương Bảo Tr và anh Trương Như Quang Nh xác lập quan hệ vợ, chồng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn vào năm 2016 và đủ điều kiện kết hôn theo luật định nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống, do vợ, chồng có nhiều điểm bất đồng trong mối quan hệ tình cảm, không quan tâm, chăm sóc, cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Xét mâu thuẫn thực tế là có nhiều mâu thuẫn, nhận thấy về mục đích hôn nhân không đạt. Bởi lẽ, trong cuộc sống vợ chồng, anh, chị mỗi người đều có cách sống, công việc khác nhau, anh Nh thường xuyên đi làm xa, chị Tr ở nhà cha, mẹ chồng làm dâu nên ít có điều kiện gần gủi, an ủi và cảm thông cho nhau nên không hiểu về nhau, từ đó, vợ, chồng đã nhiều lần cải vã, làm mất lòng tin đối với nhau, mỗi người có cuộc sống và mối quan hệ riêng tư, không quan tâm, giúp đở lẫn nhau. Mặt khác, sau khi xảy ra mâu thuẫn, anh, chị cũng tự dung hoà để hàn gắn tình cảm vợ, chồng nhưng không có hiệu quả. Thực tế anh, chị cũng không còn chung sống vợ chồng khoảng 01 năm nay. Thời gian này nhằm tạo điều kiện cho anh, chị thử thách bản thân, suy ngẫm về cuộc sống vợ, chồng đã qua để tìm cách tháo gỡ, khắc phục khuyết điểm của mỗi bên để vợ, chồng đoàn tụ nhưng không ai có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn và cũng không quan tâm, thăm hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Mặt khác, tự bản thân anh Nh cũng biết rõ là không thể chung sống với chị Tr được nữa. Tuy nhiên, anh vẫn muốn kéo dài cuộc hôn nhân mà không có biện pháp gì cụ thể để vợ, chồng đoàn tụ. Bên cạnh đó, chị Tr cương quyết ly hôn, nếu không được xem xét thì chị cũng không thể quay lại chung sống với anh Nh, vì tình cảm không còn và tương lai, hạnh phúc cũng không có. Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm và cuộc sống vợ chồng muốn duy trì được cần phải có sự dung hoà, cảm thông, chia sẽ và xây đắp của cả hai bên chứ không phải sự ép buộc, níu kéo từ một phía; hơn nữa tình cảm vợ, chồng của chị Tr và anh Nh đã rạng nức, không tìm được tiếng nói chung nên không thể hàn gắn được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận cho chị Tr được ly hôn với anh Nh là có căn cứ.

[3] Về con chung: Chị Tr và anh Nh xác định giữa chị và anh có 01 con chung tên Trương Kim A, sinh ngày 31/3/2017, hiện cháu Kim A đang chung sống với chị Tr. Khi ly hôn, chị Tr yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con. Anh Nh xác định: Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh đồng ý giao con cho chị Tr nuôi, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, hiện chị Tr đang hoạt động kinh doanh, mua bán hàng hóa tại thị trấn Đ, có thu nhập và đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu Kim A, đồng thời quan điểm của anh Nh cũng thống nhất giao cháu Kim A cho chị Tr nuôi. Do đó, cần chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của anh Nh và chị Tr là giao cháu Kim A cho chị Tr tiếp tục nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, tuy chị Tr không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con nhưng để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên và theo nguyện vọng của anh Nh nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh Nh mỗi tháng 1.000.000đ là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Chị Tr và anh Nh xác định giữa vợ, chồng anh, chị không có tài sản chung nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị Tr và anh Nh khai rằng anh, chị không thiếu nợ ai và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh Nh phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trương Bảo Tr về việc xin ly hôn anh Trương Như Quang Nh.

2. Về con chung: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Tr và anh Nh - giao cháu Trương Kim A, sinh ngày 31/3/2017 cho chị Trương Bảo Tr trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh Nh mỗi tháng 1.000.000đ. Thời hạn cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Kim A đủ 18 tuổi. Anh Trương Như Quang Nh được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị Tr có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Nh không tự nguyện thi hành khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì hàng tháng phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thanh toán.

3. Về tài sản chung: Chị Tr và anh Nh xác định không có tài sản chung nên không đặt ra xem xét.

4. Về nợ chung: Chị Tr và anh Nh khai không thiếu nợ ai và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

5. Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, chị Tr phải chịu 300.000đ.

Ngày 12 tháng 4 năm 2018, chị Tr đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 645 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C được đối trừ chuyển thu sung quỹ nhà nước. Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh Nh phải chịu 300.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:133/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về