Bản án 133/2017/HS-ST ngày 27/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 133/2017/HS-ST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 133/2017/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Mã Thế T, sinh ngày 24/8/1985; Nơi ĐKNKTT: Tổ X, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Mã Nguyên T, sinh năm 1962 và bà Lê Thị Q, sinh năm 1962; Có vợ là Đỗ Thị L, sinh năm 1983 (đã ly hôn), có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên toà.

Người bị hại: Anh Phạm Đức M, sinh năm 1980; Nơi ĐKNKTT: Tổ 2, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Mã Thị T1, sinh năm 1988; Nơi ĐKNKTT: Tổ 4, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.

- Anh Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1974; Nơi ĐKNKTT: Tổ 3, phường H, thành phố Sơn La. Tạm trú tại: Tổ 5, phường S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Mã Thế T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 03/5/2017, Mã Thế T trú tại tổ X, phường Q, thành phố Sơn La đi vào phòng bảo vệ của bến xe khách tỉnh Sơn La lấy chìa khóa ô tô khách BKS: 26K-8788 của anh Phạm Đức M để vào xe  lấy sạc pin điện thoại (trước đây T là phụ xe ô tô khách BKS: 26K-8788). Sau khi lấy được sạc điện thoại T đi xuống cuối xe để lấy khăn lạnh lau mặt thì nhìn thấy 01 máy phát điện xe ô tô để ở gường nằm số 14. T đã nảy ý định lấy trộm chiếc máy phát điện bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. T bê chiếc máy phát điện ra khỏi xe và gọi 01 chiếc Taxi đỗ gần đấy chở chiếc máy phát điện về nhà cất giấu. Đến ngày 11/5/2017 T nói dối em gái là Mã Thị T1 có chiếc máy phát điện của xe khách Điện Biên nhờ bán hộ. Ngày 12/5/2017 T1 mang chiếc máy phát điện bán cho anh Nguyễn Ngọc T2 ở tổ 5, phường S, thành phố Sơn La với giá 3.000.000 (ba triệu đồng). Số tiền bán máy phát điện T cho T1 500.000 (năm trăm nghìn đồng), còn lại 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn đồng) T tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 20/5/2017 Công an phường Quyết Tâm thành phố Sơn La mời lên làm việc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176 (thu giữ tại Gara ô tô của anh Nguyễn Ngọc T2)

Ngày 22/5/2017 Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La đã ra quyết định trưng cầu định giá tài sản 01 chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176 mua từ 4/2013. Ngày 24/5/2017 Hội đồng định giá tài sản thành phố Sơn La có Thông báo kết luận định giá số 122/TB, xác định giá trị còn lại của 01 chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176 mua từ tháng 4/2013 là 6.000.000 (sáu triệu đồng).

Ngày 19/6/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã trao trả chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176 cho chủ sở hữu là anh Phạm Đức M.

Đối với Mã Thị T1 và Nguyễn Ngọc T2 là những người đã mua, bán chiếc máy phát điện vào ngày 12/5/2017. Khi mua bán T2, T1 đều không biết tài sản đó do Ttrộm cắp mà có nên hành vi của Mã Thị T1 và Nguyễn Ngọc T2 không cấu thành tội phạm.

Do có hành vi phạm tội nêu trên tại bản cáo trạng số 105/KSĐT ngày 14/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Mã Thế T về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toa hôm nay bi cao Mã Thế T đa khai nhân toan bô hanh vi pham tôi cua minh đung như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và thưa nhân bản Cáo trang truy tô bi cáo vê tôi “Trôm căp tài san” là đúngngười, đúng tội.

Trong phân tranh luân, đai diên Viên kiêm sat nhân dân thành phố Sơn La giư quyên công tô tai phiên toa trình bày lời luận tội, sau khi phân tich đanh gia tính chất, mưc đô hanh vi pham tôi cua bi cao, cũng như qua xem xet cac tinh tiêt tăng năng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xư tuyên bố bị cáo Mã Thế T phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Mã Thế T từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41; khoản 1 Điều 42 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận Cơ quan điều tra đã trả cho anh Phạm Đức M: 01 chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa hôm nay, lơi khai nhân tôi cua bi cao Mã Thế T là có căn cứ phù hợp với thời gian, đia điêm xay ra tôi pham , đơn trình báo; vật chứng thu giữ cung như lơi khai cua ngư ời bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hô sơ vu an xac đinh: Khoảng 13 giờ, ngày 03/5/2017 Mã Thế T đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176 trị giá 6.000.000 (sáu triệu đồng) của anh Phạm Đức M để trên xe khách BKS:26K-8788 mang về nhà, sau đó nhờ em gái là Mã Thị T1 mang đi bán, được tiền T tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 20/5/2017 Công an phường Quyết Tâm thành phố Sơn La mời lên làm việc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đã có đủ cơ sở để kết luân: Bị cáo Mã Thế T phạm tội "Trôm căp tai san", tôi phạm đươc quy đinh tai khoan 1 Điêu 138 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đa truy tô la đung ngươi, đung tôi, đung phap luât.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , đa xâm pham t rưc tiêp đên quyên sơ hưu vê tai san cua ng ười khác được pháp luật bảo vệ . Hành vi phạm tội của bị cáo  không nhưng gây thiêt hai vê vât chât cho ngươi bi hai ma còn gây mất  trât tư tri an tai đia phương  , gây hoang mang, lo lăng trong quân chúng nhân dân, bị cáo thực hiên hanh vi tội phạm vơi lôi cô y. Do vây, cân phai có một mưc hinh phat phu hơp vơi hanh vi pham tôi cua bi cao  , nhăm giao duc riêng va phong ngưa chung.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Mã Thế T tuôi đơi con trẻ, có nhân thân tôt , chưa co tiên an , tiên sư; phạm tội lần đầu và thuộc  trương hơp it nghiêm trọng, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Tại cơ quan điêu tra cung như   tại phiên toà hôm nay  bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo   , tỏ ra ăn năn hối cải , khai nhân toan bô ha  nh vi pham tôi cua minh nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Mã Thế T có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; có nơi cư trú rõ ràng; qua xem xet tinh chât , mưc đô phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử nhân thây không cân thiêt phai cach ly bi cao ra khoi đơi sông xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân tôt cho xa hôi .

Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật Hình sự, song xét hoàn cảnh bị cáo khó khăn không có tài sản, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với Mã Thị T1 là người trực tiếp mang chiếc máy phát điện đi bán. Quá trình điều tra xác định khi mang chiếc máy phát điện đi bán T1 không biết đó là tài sản do T trộm cắp mà có. Hành vi đó của T1 không cấu thành tội phạm. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La không xử lý hình sự đối với T1 là phù hợp pháp luật. Trong giai đoạn điều tra T1 đã trả lại cho Mã Thế T 500.000 (năm trăm nghìn đồng), để bị cáo khắc phục hậu quả. Mã Thị T1 có đơn xin giải quyết vắng mặt và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với Nguyễn Ngọc T2 là người trực tiếp mua chiếc máy phát điện do T1 bán. Quá trình điều tra xác định khi mua bán anh T2 không biết đó tài sản do T trộm cắp mà có. Hành vi của Nguyễn Ngọc T2 không cấu thành tội phạm. Nên cơ quan điều tra không xử lý hình sự là phù hợp quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Ngọc T2 đã nhận đủ số tiền 3.000.000  (ba triệu) đồng mua chiếc máy phát điện do bị cáo tự nguyện trả và có đơn xin giải quyết vắng mặt, không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vê trach nhiêm dân sư và vật chứng vụ án: Chấp nhận việc cơ quan Công an thành phố Sơn La đã trả lại cho người bị hại là anh Phạm Đức M chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176. Anh M đa nhân lai đươc tai san, có đơn xin giải quyết vắng mặt và không co yêu câu bị cáo phải bôi thương nên Hội đồng xét xử không xem xet giai quyê.t

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy đinh cua pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Mã Thế T phạm tội: Trộm cắp tài sản.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Mã Thế T 08 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 16 (mười sáu) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/9/2017). Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

Giao bị cáo Mã Thế T cho Ủy ban nhân dân phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Mã Thế T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Phạm Đức M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Ngọc T2, chị Mã Thị T1 không yêu câu bị cáo bôi thương nên Hội đồng xét xử không xem xet giai quyê.t

3. Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41; khoản 1 Điều 42 Bộ luật Hình sự; điểm b, khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận việc cơ quan Công an thành phố Sơn La đã trả lại cho người bị hại anh Phạm Đức M: 01 chiếc máy phát điện ô tô hiệu MANDO AL218176.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Mã Thế T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/9/2017); người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2017/HS-ST ngày 27/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:133/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về