Bản án 133/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 133/2017/HSST NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10 địa chỉ: 27 đường Thành Thái, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 111/2017/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

- Giới tính: Nam; sinh năm: 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Đường K, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: Khu phố T, phường L, thị xã A, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: chạy xe ôm; trình độ học vấn: 6/12; con ông: Phan Văn Hoàng (chết); và bà: Nguyễn Hoa Huệ; có vợ: NLQ2 và 02 con (lớn sinh năm: 2013, nhỏ sinh năm: 2017); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt giữ ngày: 24/3/2017.

- Người bị hại:

Bùi Trọng K – Sinh năm:1990 (vắng mặt).

Trú tại: Khu phố L, phường L, thị xã A, tỉnh Bình Dương. (Bị cáo có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/NLQ1 – Sinh năm: 1975 (vắng mặt).

Thường trú: Đường La, Phường M, Quận Y, TP.HCM.

2/NLQ2 – Sinh năm: 1993 (có mặt).

Trú tại: Khu phố T, phường L, thị xã A, tỉnh Bình Dương.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ 00 ngày 24/03/2017, điều khiển xe môtô biển số 51U6-0467 chạy đến trước nhà số 336/1 đường Vĩnh Viễn, Phường 8, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì nhìn thấy anh Bùi Trọng K đang sử dụng điện thoại di động; H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản, nên điều khiển xe áp sát rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại di động của anh K, sau đó tăng ga chạy thoát; ngay lúc này, anh K cùng quần chúng nhân dân đuổi theo, bắt giữ được H cùng vật chứng giải giao đến Công an Phường 8, Quận 10; Công an Phường 8, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu vàng hồng, đã được thu hồi và giao trả lại cho người bị hại. Người bị hại không có yêu cầu gì.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với về hành vi “Cướp giật tài sản”.

Đối với 01 xe môtô hiệu LIFAN biển số 51U6-0467, qua xác minh người đứng tên giấy đăng ký xe là bà NLQ1; năm 2013, bà NLQ1 đã cho riêng NLQ2 (vợ của bị cáo H) chiếc xe trên, sau đó sử dụng làm phương tiện chạy xe ôm; việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện cướp giật tài sản, bà NLQ2 không biết, Công an Quận 10 đã tạm giữ lại cùng 01 túi xách màu đen (do H sử dụng để cất chiếc điện thoại di động sau khi cướp giật được).

Tại bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với người bị hại và xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo (thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với bị cáo ; xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Đối với 01 chiếc xe môtô biển số 51U6-0467 (Loại xe: hai bánh, nhãn hiệu: LIFAN, số khung: LF3XCH085YA005661, số máy: HD1P53FMH-Y0067915); qua xác minh người đứng tên giấy đăng ký xe là bà NLQ1; năm 2013, bà NLQ1 đã cho riêng NLQ2 (vợ của bị cáo H) chiếc xe trên, sau đó sử dụng làm phương tiện chạy xe ôm; việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện cướp giật tài sản, bà NLQ2 không biết; do vậy đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, trả lại chiếc xe trên cho bà NLQ2.

Đối với 01 chiếc túi xách màu đen (do H sử dụng để cất chiếc điện thoại di động sau khi cướp giật được), không đáng giá trị; vậy đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, tịch thu và tiêu hủy.

Về phía bà NLQ2 trình bày: chiếc xe môtô biển số 51U6-0467 là do bà NLQ1 cho riêng bà NLQ2; nay bà NLQ2 mong Hội đồng xét xử trả lại cho bà sử dụng vì là phương tiện duy nhất trong gia đình.

Lời nói sau cùng của bị cáo: rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình; qua lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bị cáo đã có hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe môtô có phân khối lớn, lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai cướp giật tài sản của họ ngay trên đường phố; nên bị cáo bị truy tố và xét xử theo tình tiết định khung là điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn xâm hại đến trật tự công cộng. Do vậy dù có chiếu cố đến đâu đi nữa, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị đưa ra xét xử trước pháp luật với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, cũng nhận thấy bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm p, g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: không có gì để Tòa giải quyết.

Về vật chứng:

Đối với 01 chiếc xe môtô biển số 51U6-0467 (Loại xe: hai bánh, nhãn hiệu: LIFAN, số khung: LF3XCH085YA005661, số máy: HD1P53FMH-Y0067915); qua xác minh người đứng tên giấy đăng ký xe là bà NLQ1; năm 2013, bà NLQ1 đã cho riêng NLQ2 (vợ của bị cáo H) chiếc xe trên, sau đó sử dụng làm phương tiện chạy xe ôm; việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện cướp giật tài sản, bà NLQ2 không biết; do vậy áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trả lại chiếc xe trên cho bà NLQ2.

Đối với 01 chiếc túi xách màu đen (do H sử dụng để cất chiếc điện thoại di động sau khi cướp giật được), không đáng giá trị; vậy áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với bị cáo ;

Xử phạt bị cáo 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2017.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trả lại 01 chiếc xe môtô biển số 51U6-0467 (Loại xe: hai bánh, nhãn hiệu: LIFAN, số khung: LF3XCH085YA005661, số máy: HD1P53FMH-Y0067915) cho bà NLQ2.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc túi xách màu đen.

 (Tình trạng vật chứng, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/8/2017 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc: Bị cáo H chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày tuyên án; đối với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:133/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về