Bản án 132/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 132/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 130/2019/TLST-HS ngày 18/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2019/QĐXXST-HS ngày 04/10/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D, sinh năm 1987 tại tỉnh Hà Nam; nơi đăng ký NKTT,chỗ ở: thôn ĐT, xã LH, huyện KB, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không xác định được cha và bà Hoàng Thị D1, sinh năm 1952; vợ: Nguyễn Thị T (đã ly hôn); con: chưa có; tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 09/01/2018, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, TP Hà Nội ra Quyết định số 08/2018/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng. Chấp hành xong ngày 20/04/2019.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/8/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1955; Trú tại: Thôn ĐT, xã LH, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Đinh Văn Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 01/8/2019, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô BKS 90H3-2842 từ nhà đến thành phố Phủ Lý mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực tổ 8, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, D gặp một người thanh niên là bạn nghiện mới quen hỏi D “Hôm nay em chơi hay chưa”, D trả lời “Hôm nay em chưa chơi”. người thanh niên nói “Đây anh có hàng chú cầm lấy mà chơi” đồng thời đưa cho D 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long. D biết bên trong có ma túy nên cầm lấy cất vào túi quần bên trái phía trước, sau đó người thanh niên bỏ đi còn D chuẩn bị đi tìm chỗ để sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý yêu cầu kiểm tra. D tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, mở ra kiểm tra bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ Nguyễn Văn D khai nhận đó là gói ma túy cất giữ mục đích để sử dụng.

Thu giữ vật chứng, tài sản gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02; 01 ví giả da màu nâu đã cũ và 01 xe mô tô nhãn hiệu SUFAT, BKS 90H3- 2842.

Tại bản kết luận giám định số 148/PC09-MT ngày 05/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,136gam, loại Heroine”.

Ngày 02/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Nguyễn Văn D tại thôn ĐT, xã LH, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Bản cáo trạng số 133/CT-VKS-PL ngày 17/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định và một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, trả lại Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 ví giả da màu nâu đã cũ, trả lại ông Nguyễn Hữu T 01 xe mô tô nhãn hiệu SUFAT màu nâu, BKS: 90H3-2842.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội. 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Hữu T xác nhận chiếc xe mô tô nhãn hiệu SUFAT màu nâu, BKS: 90H3-2842 là của ông cho D mượn để đi làm, ông không biết D mang xe đi mua ma túy nên ông xin lại chiếc xe trên làm phương tiện đi lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn D đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 8 gi 40 phút ngày 01/8/2019, tại khu vực tổ 8, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Văn D có hành vi cất giấu trái phép 0,136 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu: Ngày 09/01/2018, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, TP Hà Nội ra Quyết định số 08/2018/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong ngày 20/04/2019 song bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện chính mình mà vẫn tiếp tục có hành vi phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy thu giữ của Nguyễn Văn D, D khai nhận số ma túy trên của một người thanh niên khoảng 30 tuổi (không biết tên, địa chỉ cụ thể) gặp ở tổ 8, phường Lê Hồng phong, thành phố Phủ Lý đã đưa cho D. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý phối hợp với Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý đã điều tra, xác minh nhưng không xác định được. Ngoài lời khai của D không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh. Do vậy không có căn cứ để xử lý người đưa ma túy cho D trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 chiếc ví giả da màu nâu đã cũ là tài sản hợp pháp của D, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo song giữ lại điện thoại để đảm bảo công tác thi hành án.

+ Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SUFAT màu nâu, BKS: 90H3-2842, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định là tài sản của ông Nguyễn Hữu T, ông T cho D mượn xe mô tô để đi nhưng không biết D sử dụng để đi mua trái phép chất ma túy, do đó cần trả lại ông T là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cần tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 47của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thư ng vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2019.

[3] Xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen và 01 ví giả da màu nâu song giữ lại điện thoại để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại ông Nguyễn Hữu T 01 xe mô tô nhãn hiệu SUFAT màu nâu, BKS: 90H3-2842.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 148/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 19/9/2019.

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000 đồng.

 Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trư ng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:132/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về