TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 132/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 134/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 155/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
ĐỖ TRẦN B; sinh năm: 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: đường H, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Giữ xe; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Minh X và bà: Trần Thị Đ; Vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 223 ngày 14/12/2016 của Toà án nhân dân quận Tân Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng, chấp hành xong ngày 26/3/2018; tạm giam, tạm giữ: 15/7/2019 (Có mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Trần Thị Đ – sinh năm 1958 (Vắng mặt)
Địa chỉ cư trú: đường C, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Quá trình điều tra, Đỗ Trần B khai nhận bản thân nghiện ma tuý, khoảng 10 giờ ngày 15/7/2019, B điều khiển xe đến đường Trần Văn Quang, phường 10, quận Tân Bình gặp người phụ nữ đi bộ (không rõ lai lịch) mua 02 gói ma tuý đá bọc trong tờ giấy hoá đơn tính tiền với giá 400.000 đồng. B cất 02 gói ma tuý đá vào trong túi quần jeans lửng bên phải phía sau, trên đường chạy về đến trước số 168 Trần Văn Quang, Phường 10, quận Tân Bình thì bị Công an quận Tân Bình kiểm tra bắt quả tang B có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý trong túi quần đang mặc. Kết quả xét nghiệm Đỗ Trần B dương tính với chất ma tuý Methamphetamine.
Kết luận giám định số 1451/KLGĐ-H ngày 23/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh: tinh thể không màu là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 0,4290g, loại Methamphetamine.
Vật chứng thu được:
- 01 xe gắn máy biển số 54N3 - 3944, kết quả xác minh người đứng tên đăng ký xe là anh Bạch Đằng H mua vào năm 2009 sử dụng đến năm 2017 thì anh H bán chiếc xe trên cho bà Trần Thị Đ nhưng không làm giấy mua bán xe chỉ giao giấy đăng ký xe bản chính. Bà Trần Thị Đ trình bày chiếc xe máy biển số 54N3 – 3944 bà mua của anh Bạch Đằng H vào giữa năm 2017 nhưng không làm giấy mua bán chỉ giữ giấy đăng ký xe nhưng do chuyển nhà bà đã làm thất lạc giấy đăng ký xe. Ngày 14/7/2019 bà Đ cho con trai là Đỗ Trần B mượn xe để đi chơi và bị công an bắt.
- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1451 là ma tuý còn lại sau giám định.
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh.
- Số tiền 1.200.000 đồng.
Đối với người phụ nữ bán ma tuý cho Đỗ Trần B, do không xác định được lai lịch nên không có cơ sở làm rõ để xử lý.
Tại bản cáo trạng số 133/CT-VKS ngày 28 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Đỗ Trần B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Đỗ Trần B, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Trần B đã có hành vi cất giấu 0,4290 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Năm 2016 đã bị đưa đi cai nghiện nhưng vẫn tái nghiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tang vật vụ án:
- 01 xe máy hiệu Nouvo, biển số 54N3-3944 bà Trần Thị Đ có yêu cầu xin nhận lại xe để làm phương tiện đi lại. Hội đồng xét xử xét đây là tài sản hợp pháp của bà Đ, việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma tuý bà Đ không biết nên thống nhất trả lại xe cho bà Đ.
- Số tiền 1.200.000 (Một triệu hai trăm ngàn) đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất trả lại cho bị cáo.
- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1451 là tang vật ma túy còn lại sau giám định. Hội đồng xét xử xét đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ Điều 106, Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
[1] Tuyên bố bị cáo Đỗ Trần B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo: Đỗ Trần B 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
[2]- Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, ghi số 1451 là tang vật ma túy còn lại sau giám định.
- Trả lại cho bị cáo: số tiền 1.200.000 (Một triệu hai trăm ngàn) đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh.
- Trả lại cho bà Trần Thị Đ 01 xe máy hiệu Nouvo, biển số 54N3-3944, số máy 5P11-072675; số khung 9Y-072677.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 177/PNK ngày 09/10/2019 của Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh).
[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).
[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ
Bản án 132/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 132/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về