Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 24/08/2021 về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN

 Ngày 24 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 49/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021, về việc:“Ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số: 12/QĐ-TA ngày 17/8/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lăng Thị H, sinh năm 1981. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã K1, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; Chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã P, huyện Q, tỉnh B, vắng mặt (đơn xin xét xử vắng mặt ngày 21/7/2021).

Bị đơn: Anh Hoàng Văn V, sinh năm 1979; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã K1, huyện T, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/4/2021, bản tự khai ngày 20/6/2021 chị Lăng Thị H trình bày:

Chị Lăng Thị H và anh Hoàng Văn V được tự do tìm hiểu yêu đương, sau thời gian tìm hiểu thì tự nguyện kết hôn với nhau. Việc kết hôn được hai bên gia đình tổ chức theo phong tục tập quán địa phương, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kim Đồng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 12/3/2004. Sau đó anh, chị về sống chung cùng gia đình bên chồng tại Thôn K, xã K1, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu nảy sinh từ đầu năm 2020 do bất đồng quan điểm sống dẫn đến đánh nhau, chửi nhau nên chính thức ly thân từ tháng 6/2020 cho đến nay. Chị Lăng Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa nên xin được ly hôn.Về con chung: Có 03 người con chung là Hoàng Thanh T, sinh ngày 03/12/2004; Hoàng Thị Hải Y, sinh ngày 06/5/2006; Hoàng Duy V, sinh ngày 21/7/2013. Khi ly hôn chị H yêu cầu anh Hoàng Văn V trực tiếp nuôi dưỡng con chung và chị H sẽ cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000 đồng/ tháng/con chung đến khi các con chung đủ 18 tuổi.Về các khoản nợ chung và tài sản chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Văn V vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai anh V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Hoàng Văn V quen biết với chị Lăng Thị H, sinh năm 1981; cư trú tại Thôn N, xã K1, huyện T, tỉnh Lạng Sơn vào năm 2001, sau thời gian tìm hiểu yêu đương thì anh, chị kết hôn vào 08/12/2003 (âm lịch), việc kết hôn được 02 bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau đó đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kim Đồng theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn cả hai về sống chung với nhau tại Thôn H (Thôn K cũ), xã K1, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu vào tháng 6/2020, nguyên nhân mâu thuẫn là do điện thoại của chị H hay có tin nhắn lạ, có lúc chị Lăng Thị H còn nhắn tin cả đêm (chùm cả chăn vào nhắn tin), anh Hoàng Văn V có khuyên can, nhưng chị H không thay đổi nên vợ, chồng mâu thuẫn, đến 28/4/2020 (âm lịch) thì chị Lăng Thị H bỏ hẳn về nhà ngoại sinh sống tại thôn N, xã K1. Ngày 05/9/2020 thì vợ chồng làm lành với nhau, nhưng chị H vẫn chưa về nhà sống cùng anh V mà vẫn đi làm công ty ở dưới Bắc Ninh, và từ đó vợ chồng chính thức ly thân từ tháng 11/2020 cho đến nay. Anh Hoàng Văn V vẫn yêu thương và muốn chị Lăng Thị H về đoàn tụ với gia đình nên không đồng ý ly hôn. Về con chung: Có 03 người con chung là Hoàng Thanh T; Hoàng Thị Hải Y; Hoàng Duy V. Anh Hoàng Văn V không nhất trí ly hôn, nhưng nếu phải ly hôn anh Hoàng Văn V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và yêu cầu chị Lăng Thị H cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000 đồng/tháng/con chung đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Về các khoản nợ chung và tài sản chung: Không có.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn phát biểu quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng mọi trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đối với nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các Điều 56;

58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lăng Thị H ly hôn với anh Hoàng Văn V. Về con chung: Giao cả ba con chung là Hoàng Thanh T; Hoàng Thị Hải Y; Hoàng Duy V cho anh Hoàng Văn V nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục, chị Lăng Thị H phải cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000 đồng/tháng/con chung, cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, các khoản nợ chung không xem xét giải quyết. Về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lăng Thị H và anh Hoàng Văn V đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã K1, huyện T. Khi chị H viết đơn xin ly hôn, anh Hoàng Văn V là bị đơn vẫn cư trú tại địa chỉ trên. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.

[2] Về việc vắng mặt của cả đương sự: Tại phiên tòa ngày hôm nay nguyên đơn là chị Lăng Thị H và bị đơn là anh Hoàng Văn V đều vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy chị Lăng Thị H đã có đơn xin xét xử vắng mặt, còn anh Hoàng Văn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lăng Thị H và anh Hoàng Văn V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt, nhưng căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử nhận thấy chị H và anh V không còn thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, tình cảm giữa anh chị thực sự đã hết, mục đích Hôn nhân không đạt được. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lăng Thị H.

[5] Về con chung: Có 03 con chung là Hoàng Thanh T, sinh ngày 03/12/2004; Hoàng Thị Hải Y, sinh ngày 06/5/2006; Hoàng Duy V, sinh ngày 21/7/2013. Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì cả chị H và anh V đều có ý kiến là anh Hoàng Văn V được quyền nuôi dưỡng và chăm sóc cả 03 con chung và chị Lăng Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000 đồng/tháng/con chung, đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử thấy rằng ý kiến của chị H và anh V là tự nguyện và phù hợp với thực tế và nguyện vọng của các con chung, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí chị Lăng Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 57, 58, 81, 82, 83, 116 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 146; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:

1. Xử cho chị Lăng Thị H và anh Hoàng Văn V ly hôn.

2. Về con chung: Anh Hoàng Văn V được quyền trực tiếp, nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung là Hoàng Thanh T, sinh ngày 03/12/2004; Hoàng Thị Hải Y, sinh ngày 06/5/2006; Hoàng Duy V, sinh ngày 21/7/2013 và chị Lăng Thị H sẽ cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000 đồng/tháng/con chung đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Chị Lăng Thị H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, các khoản nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lăng Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung. Tổng số tiền chị Lăng Thị H phải nộp là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) để nộp ngân sách nhà nước. Chị Lăng Thị H đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0000016 ngày 26/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Chị Lăng Thị H có nghĩa vụ nộp tiếp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lăng Thị H, anh Hoàng Văn V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 24/08/2021 về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về