Bản án 179/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 179/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 14/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B - tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 2280/2020/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/4/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 219/2021/QĐST - DS ngày 21/5/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phạm Văn N, sinh năm 1975.

Địa chỉ: tổ 41, khu phố 3A, phường TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Bà Đặng Thị Thanh H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: tổ 41, khu phố 3A, phường TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Ông N có đơn xin xét xử vắng mặt; bà H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Phạm Văn N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà Đặng Thị Thanh H xây dựng gia đình với nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Th, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa, hôn nhân tự nguyện, không bị ai đe dọa, cưỡng ép. Qúa trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bà H thiếu trách nhiệm với gia đình, với chồng, con. Bà H từng bỏ nhà đi với người đàn ông khác, bỏ mặc con cái cho chồng, trong khi các con đang còn nhỏ, luôn cần đến bàn tay chăm sóc của người mẹ. Tôi đã nhiều lần khuyên bảo, thậm chí cảnh cáo bà H về mối quan hệ bất chính với người đàn ông khác dẫn đến đổ vỡ gia đình, ảnh hưởng đến việc học của các con và tương lai của các con. Tuy nhiên, mọi lời khuyên của tôi đều không có tác dụng, bà H vẫn say sưa chơi bời ngoài xã hội. Nay xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi làm đơn xin ly hôn với bà Đặng Thị Thanh H.

Về con chung: Chúng tôi có 02 con chung tên Phạm Ngọc H, sinh ngày 05/12/2003 và Phạm Ngọc N, sinh ngày 30/01/2006.

Ly hôn, tôi đề nghị được là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháu. Không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Đặng Thị Thanh H được Tòa án triệu tập hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và những tham gia tố tụng: Thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Phạm Văn N, cho ông Phạm Văn N được ly hôn với bà Đặng Thị Thanh H; Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Ngọc H, sinh ngày 05/12/2003 và Phạm Ngọc N, sinh ngày 30/01/2006, cháu H có nguyện vọng được ở với ông N, hiện hai cháu đang ở với ông N nên giao hai cháu cho ông N được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật, bà H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Theo ông N trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng bà H không đến Tòa làm việc, không có lời trình bày nên không đặt ra xem xét. Về án phí: Ông N phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn bà Đặng Thị Thanh H hiện cư trú tại địa bàn thành phố B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tống tụng cho bà Đặng Thị Thanh H nhưng bà không đến tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng và hòa giải cũng như xét xử, ông N có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành đưa vụ án xét xử vắng mặt đối với ông N, bà H.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Thanh H và ông Phạm Văn N chung sống với nhau từ năm 2002, có đăng ký kết hôn, hôn nhân tự nguyện, không bị ai đe dọa, cưỡng ép nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại các điều 9, 11, 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Quá trình chung sống theo ông Phạm Văn N trình bày vợ chồng thường xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bà H thiếu trách nhiệm với gia đình, với chồng, con. Bà H từng bỏ nhà đi với người đàn ông khác, bỏ mặc con cái cho chồng, trong khi các con đang còn nhỏ, luôn cần đến bàn tay chăm sóc của người mẹ. Ông đã nhiều lần khuyên bảo, thậm chí cảnh cáo bà H về mối quan hệ bất chính với người đàn ông khác dẫn đến đổ vỡ gia đình, ảnh hưởng đến việc học của các con và tương lai của các con. Tuy nhiên, mọi lời khuyên của tôi đều không có tác dụng, bà H vẫn say sưa chơi bời ngoài xã hội. Nay xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi làm đơn xin ly hôn với bà Đặng Thị Thanh H.

Xét thấy mâu thuẫn giữa ông Phạm Văn N và bà Đặng Thị Thanh H theo ông Phạm Văn N trình bày là có thật, thể hiện bà H đã bỏ đi khỏi địa phương từ ngày 04/7/2017 đến nay. Ông N đã tiến hành thủ tục thông báo tìm kiếm trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có tin tức gì của bà H. Qúa trình giải quyết Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ để bà Đặng Thị Thanh H đến Tòa làm việc nhưng bà không đến Tòa để tham gia các buổi làm việc, cũng như hòa giải đoàn tụ gia đình, thể hiện bà bỏ mặc cho tình trạng hôn nhân của vợ chồng, không có ý muốn hàn gắn đoàn tụ. Căn cứ vào các điều 51, 54, 56, 57, 58 Luật Hôn nhân và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận đơn xin ly hôn của ông Phạm Văn N, giải quyết cho ông N được ly hôn với bà Đặng Thị Thanh H là phù hợp quy định pháp luật.

[4] Về con chung: Bà Đặng Thị Thanh H và Phạm Văn Nhỏ có Phạm Ngọc H, sinh ngày 05/12/2003 và Phạm Ngọc N, sinh ngày 30/01/2006, cháu Hải có nguyện vọng được ở với ông N, hiện hai cháu đang ở với ông N nên giao hai cháu cho ông N được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật, bà H không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông N có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con. Hiện hai con chung đang ở với ông N, cháu Hải có nguyện vọng được ở với ông N. thiết nghĩ nên giao hai con chung cho ông N được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật. Tạm thời bà H không cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Theo ông Phạm Văn N trình bày là tài sản chung và nợ chung không có. Tuy nhiên, bà H không lên Tòa làm việc nên không có ý kiến về các vấn đề này. Do vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết, nếu sau này các bên có yêu cầu sẽ giải quyết bằng một vụ án khác [6] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Ông Phạm Văn N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm theo quy định, trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Phạm Văn N đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai số 0007128 ngày 23/10/2020, ông Phạm Văn N đã nộp xong.

[7] Quan điểm đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp nhận định Hội đồng xét xử nên được xem xét trong quá trình nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 238 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các điều 9, 11, 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Áp dụng các điều 51, 54, 56, 57, 58; 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Phạm Văn N.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Văn N được ly hôn với bà Đặng Thị Thanh H.

Về con chung: Giao cháu Phạm Ngọc H, sinh ngày 05/12/2003 và Phạm Ngọc N, sinh ngày 30/01/2006 cho ông Phạm Văn N được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, tạm thời bà Đặng Thị Thanh H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên bà H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết, các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí HNGĐ sơ thẩm: Ông Phạm Văn N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm theo quy định, trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Phạm Văn N đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai số 0007128 ngày 23/10/2020, ông Phạm Văn N đã nộp xong.

Bà Đặng Thị Thanh H và ông Phạm Văn N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 179/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:179/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về