TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PƯH, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/QĐXXST-HS ngày 05/5/2020 và thông báo chuyển ngày xét xử số 04/TA-HS ngày 15/5/2020, đối với bị cáo:
Kpă S, sinh năm: 2002, tại Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Jrai; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Không biết chữ; con ông Rmah A và bà Kpă H’P; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại; có mặt tại phiên toà.
- Người bị hại:
1. Anh Nguyễn H, sinh năm 1981;
Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Ga A, xã CD, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
2. Ông Trần Xuân T, sinh năm 1972 Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Kpă H’ P, sinh năm 1976 (Đồng thời là người đại diện hợp pháp của bị cáo Kpă S) Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Kpuih S1, sinh năm 2005 Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
3. Rmah R, sinh năm 2003 Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
4. Siu T1, sinh năm 2002 Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
5. Ông Siu M, sinh năm 1964 và bà Kpuih H’ K, sinh năm 1961 (Đồng thời là người đại diện hợp pháp của Kpuih S1).
Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
6. Bà Rmah H’ L, sinh năm 1975 (Đồng thời là người đại diện hợp pháp của Rmah R).
Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
7. Ông Nay M, sinh năm 1963 Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
8. Ông Kpuih T2, sinh năm 1966 và bà Siu H’ P, sinh năm 1978 (Đồng thời là người đại diện hợp pháp của Siu T1) Nơi cư trú: Thôn Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Kpă S: Ông Thái Quốc T3 – Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Người phiên dịch tiếng Jarai: Ông Rmah M– Dân tộc Jarai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Với mục đích trộm cắp heo làm thịt ăn, trong 02 ngày 08/5/2019 và ngày 11/5/2019, Kpă G và Kpă S cùng các đối tượng khác đã lén lút thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản (Heo) cụ thể như sau:
- Vụ thứ nhất: Vào khoảng 22 giờ ngày 08/5/2019, trong lúc Kpă G, Kpă S, Rmah R, Kpuih S1 và Rmah S2 đều trú tại Plei Thơ Nhueng, xã IP, huyện CP, tỉnh Gia Lai đang ngồi uống rượu tại nhà của Guơt ở Plei Thơ Nhueng, xã IP. Thì G gọi S, R và S1 ra ngoài và rủ những người này đi trộm cắp tài sản (Heo) để về làm thịt ăn thì tất cả đều đồng ý. Lúc này, G vào trong nhà lấy 01 con dao rựa dài khoảng 60cm rồi mượn xe mô tô của Rmah S2, điều khiển xe chở S, R và S1 đi đến trại nuôi heo tại Plei Thơ Ga B, xã CD, huyện CP, tỉnh Gia Lai của gia đình anh Nguyễn H. Khi đến nơi, thấy cửa trại heo khóa và không có người trông coi nên S1 và R đứng ngoài cảnh giới còn G và S dùng dao mang theo cạy, phá cửa rồi đi vào dùng dao chém chết 01 con heo (Loại heo thường nuôi để lấy thịt) có trọng lượng khoảng 60kg. Sau đó, 04 đối tượng cùng nhau bỏ con heo vào một chiếc bao và chở về rẫy của gia đình ông Siu B để làm thịt và rủ thêm Rmah S2 và Siu T1 đến cùng ăn. Sau khi ăn xong, số thịt heo còn lại R mang về nhà của mình. Đến ngày 09/5/2019, R tiếp tục rủ thêm Siu H, Rah Lan Ê và Siu H đến và cùng ăn hết số thịt heo trên.
- Vụ thứ hai: Vào khoảng 01 giờ ngày 11/5/2019, trong lúc G, S và S1 đang ngồi uống rượu tại đường liên thôn gần nhà G thuộc Plei Thơ Nhueng, xã lP, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Lúc này, G tiếp tục rủ S và S1 đi đến nhà rẫy tại Plei Thơ Nhueng, xã lP, huyện CP, tỉnh Gia Lai của gia đình anh Trần Xuân T để trộm cắp heo về làm thịt ăn thì tất cả cùng đồng ý. G vào nhà lấy một con dao rựa mang theo rồi cùng S và S1 đi bộ đến nhà rẫy của anh T; trên đường đi, S có nhặt một cây gậy tre ở bên đường và mang theo. Khi đến nơi, quan sát thấy nhà rẫy của anh T không có người trông coi nên G và S đã mở lưới B40 đi vào trong chuồng heo, còn S1 ở bên ngoài cảnh giới. Tại đây, G và S dùng dao và gậy chém, đập chết 01 con heo đồng bào trọng lượng 53kg (Vì trước đó ngày 09/5/2019 anh T có cân con heo này để bán nhưng không được giá nên chưa bán), rồi các đối tượng cùng nhau kéo lê con heo ra ngoài sân, bỏ vào một chiếc bao. Sau đó, G đi về mượn xe, còn S và S1 ở lại đợi; một lúc sau, G điều khiển xe mô tô của S2 đến chở S và S1 cùng con heo đi đến rẫy tại Plei Thơ Nhueng, xã lP, huyện CP, tỉnh Gia Lai của anh Lê Quang P để làm thịt heo ăn. Sau khi ăn xong, số thịt heo còn lại, các đối tượng mang về nhà G và hôm sau tiếp tục rủ thêm Siu H, Rmah R đến cùng nhau ăn hết số thịt heo trên.
Sau khi phát hiện bị mất tài sản thì đến ngày 14/5/2019 anh Nguyễn Hiền và anh Trần Xuân Tuấn làm đơn trình báo đến Công an huyện Chư Pưh. Qua điều tra xác minh, Cơ quan điều tra đã xác định được các đối tượng trộm cắp tài sản.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 22/HĐĐGTS-CS của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Pưh ngày 10/6/2019 kết luận:
+ Giá trị thực tế 01 con heo, loại heo mọi (Heo đồng bào) có trọng lượng 53kg là: 53kg x 70.000đ/kg = 3.710.000 đồng.
+ Giá trị thực tế 01 con heo, loại heo thịt có trọng lượng 60kg là: 60kg x 40.000đ/kg = 2.400.000 đồng.
Tổng cộng giá trị tài sản bị thiệt hại là: 6.110.000 đồng.
Về vật chứng vụ án:
- Đối với 01 con heo, loại heo mọi (Heo đồng bào) có trọng lượng 53kg và 01 con heo (Heo thịt) có trọng lượng 60kg; bị cáo cùng các đối tượng liên quan đã giết thịt và ăn hết.
- Đối với 01 cây gậy tre, dài khoảng 01m mà bị cáo Kpă S đã sử dụng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 11/5/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh đã xác minh, truy tìm nhưng không thu giữ được.
- Đối với 01 con dao rựa dài khoảng 60cm, mà Kpă G đã sử dụng để thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản vào ngày 08/5/2019 và ngày 11/5/2019 (Theo lời khai của Kpă S, Kpuih S1 và Rmah R). Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh chưa làm việc được với Kpă G nên chưa xác định được.
- Đối với 01 chiếc xe mô tô mà Kpă G đã mượn của Rmah S2 để đi thực hiện 02 vụ Trộm cắp trên (Theo lời khai của Kpă S, Kpuih S1 và Rmah R), Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh chưa làm việc được với Kpă G và Rmah S2 nên chưa xác định được phương tiện các đối tượng đã sử dụng để trộm cắp tài sản.
Về trách nhiệm dân sự: Gia đình anh Nguyễn H yêu cầu bồi thường số tiền 2.400.000 đồng. Gia đình anh Trần Xuân T yêu cầu bồi thường số tiền 3.710.000 đồng. Gia đình bị cáo Kpă S cùng gia đình Rmah R, Kpuih S1, Siu T1, Siu H đã bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của những người bị hại, những người bị hại không có yêu cầu gì khác.
Tại bản cáo trạng số: 07/CT-VKS ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Kpă S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 90, Điều 91, Điều 98, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Kpă S với mức án từ 03 đến 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự và vật chứng của vụ án: Miễn xét.
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Buộc bị cáo Kpă S phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng. Tuy nhiên, xét bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, là người chưa thành niên và là người bị rủ rê, phạm tội ít nghiêm trọng. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt tù bị cáo và áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải về việc phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Pưh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ, tài liệu thu thập được có tại hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Lợi dụng sợ sơ hở của các chủ sở hữu tài sản nên vào các ngày 08/5/2019 và 11/5/2019, Kpă G, Kpă S, Rmah R, Kpuih S1 đã lén lút chiếm đoạt 01 con heo của anh Nguyễn H tại thôn Plei Thơ Ga B, xã CD. G, S và S1 chiếm đoạt 01 con heo của anh Trần Xuân T tại thôn Plei Thơ Nhueng, xã lP, huyện CP về làm thịt ăn. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 6.110.000 đồng (Sáu triệu một trăm mười nghìn đồng). Tuy nhiên, tính đến ngày thực hiện hành vi trộm cắp tài sản Rmah R, Kpuih S đều dưới 16 tuổi nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự; Kpă G bỏ trốn chưa bắt được, đã hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ vụ án hình sự, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Hành vi nêu trên của Kpă S đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương. Bị cáo ý thức được rằng chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện nhiều lần. Hiện nay, tình hình các loại tội phạm này có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, gây bất bình lo lắng trong nội bộ quần chúng nhân dân, bất cứ lúc nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình cũng có thể bị kẻ khác chiếm đoạt làm của riêng, do vậy cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Chỉ trong một khoản thời gian ngắn, bị cáo là đồng phạm với vai trò là người thực hành 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà mỗi lần đều đủ định lượng cấu thành cơ bản về tội “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện bị cáo bỏ trốn và khi biết mình bị Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị cáo tự nguyện “Đầu thú”; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại do có sự tác động của bị cáo; bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 BLHS. Bị cáo là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội nên còn được hưởng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 90, Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự khi lượng hình, quyết định hình phạt.
Xét tính chất, mức độ của tội phạm và yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương cần thiết phải xử phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hôị mới có tác dụng giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên áp dụng Điều 54 BLHS xử phạt tù bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là hợp lý.
[4] Đối với Kpă G: Sau sự việc sảy ra đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 26/8/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh đã ra Quyết định khởi tố bị can, đồng thời ra quyết định truy nã số 11 đối với Kpă G về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng đến nay vẫn chưa bắt được. Ngày 15/10/2019, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can. Ngày 05/3/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 01 về hành vi trộm cắp tài sản của Kpă G, đồng thời ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án hình sự, khi nào bắt được sẽ xử lý sau là đúng pháp luật.
- Đối với các đối tượng Rmah R (SN: 08/12/2003), Kpuih S1 (SN:
09/6/2005) là những người cùng tham gia trộm cắp tài sản cùng với Kpă G, Kpă S. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 08/5/2019 thì Rmah R mới 15 tuổi 5 tháng, Kpuih S1 mới 13 tuổi 9 tháng 29 ngày nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” đối với Rmah R về hành vi Trộm cắp tài sản; Kpuih S chưa đủ 14 tuổi nên giao cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý, giáo dục là đúng pháp luật.
- Đối với Siu T và Siu H, khi cùng các đối tượng ăn thịt heo (Là tài sản trộm cắp vào ngày 08/5/2019), T1 có hỏi G thì G nói là heo của người kinh bị bệnh chết nên cho về thịt. T1 và H hoàn toàn không biết con heo trên là tài sản do vi phạm pháp luật mà có. Do đó, hành vi của Siu T1 và Siu H không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại Điều 323 BLHS. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh không đề cập xử lý đối với Siu Tuấn và Siu Hưng là đúng pháp luật.
- Đối với Rmah S2, Siu H và Rah Lan Ê, quá trình điều tra xác định Rmah S2, Siu H và Rah Lan Ê hiện không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa tiến hành làm việc nhằm làm rõ vài trò của Rmah S2, Siu H và Rah Lan Ê trong vụ án, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh tiếp tục xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của những người bị hại. Quá trình điều tra và tại phiên toà, những người bị hại không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.
[6] Về vật chứng: Đối với 01 con heo, loại heo mọi (Heo đồng bào) có trọng lượng 53kg và 01 con heo (Heo thịt) có trọng lượng 60kg; Bị cáo cùng các đối tượng liên quan đã giết thịt và ăn hết. Vì vậy, HĐXX không xem xét.
- Đối với 01 cây gậy tre, dài khoảng 01m mà bị cáo Kpă S đã sử dụng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 11/5/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh đã xác minh, truy tìm nhưng không thu giữ được. Vì vậy, HĐXX không xem xét.
- Đối với 01 con dao rựa dài khoảng 60cm, mà Kpă G đã sử dụng để thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản vào ngày 08/5/2019 và ngày 11/5/2019. Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh chưa làm việc được với Kpă G nên chưa xác định được. Vì vậy, HĐXX không xem xét.
- Đối với 01 chiếc xe mô tô mà Kpă G đã mượn của Rmah S2 để đi thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản nói trên, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh chưa làm việc được với Kpă G và Rmah S2 nên chưa xác định. Vì vậy, HĐXX không xem xét.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Kpă S là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về án phí: Buộc bị cáo Kpă S phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Kpă S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 58; Điều 90, Điều 91; khoản 4 Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Kpă S 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày vào trại giam chấp hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Miễn xét
3. Về vật chứng của vụ án: Miễn xét.
4. Về hình phạt bổ sung: Miễn xét.
5. Về án phí: - Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Kpă S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.
6. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; người bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết/.
Bản án 13/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 13/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Pưh - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về