Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 53/2020/TLST - HNGĐ ngày 04/3/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXX-ST ngày 02/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2020/QĐST-HNHGĐ ngày 17/6/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1999 “có mặt”; Địa chỉ: thôn Đ, xã B, huyện M, tỉnh Bình Phước:

- Bị đơn: Anh Bùi Văn Q, sinh năm 1992 “có đơn xin vắng mặt” Địa chỉ: thôn 10, xã Ơ, huyện M, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Lời trình bày của chị Nguyễn Thị H tại đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Văn Q tự nguyện chung sống với nhau và có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước vào năm 2018. Trong thời gian chung sống chị H và anh Q hạnh phúc được thời gian thì xảy ra mâu thuẩn, nguyên nhân do vợ chồng chị H và anh Q không hợp nhau nên thường xuyên cải nhau về kinh tế gia đình, anh Q có hành vi bạo lực chị H nên chị H và anh Q đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay. Nay, chị H xác định cuộc sống hôn nhân giữa chị H và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Q.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị H và anh Q có 01 người con chung tên là Bùi Thị Ngọc Q1, sinh ngày 24/7/2018. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung đến khi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án chị H yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cho chị H 2.000.000 đồng/tháng đến khi cháu Quỳnh thành niên (đủ 18 tuổi). Thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa, chị H rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Tại phiên tòa chị H trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời trình bày của anh Bùi Văn Q tại bản tự khai ngày 19/5/2020 như sau: Về hôn nhân: anh Q thống nhất với lời trình bày của chị H về thời gian chung sống, thời gian kết hôn và nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn vợ chồng. Nay, anh Q cũng xác định cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng anh Q có 01 người con chung tên là Bùi Thị Ngọc Q1, sinh ngày 24/7/2018. Khi ly hôn anh Q đồng ý giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung đến khi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Q không có ý kiến.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Q trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử và việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự thủ tục và đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Về các đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

 Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị H được ly hôn anh Q. Giao các con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con do nguyên đơn chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Bùi Văn Q theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Bị đơn anh Q cư trú tại xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Bù Gia Mập theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Đối với bị đơn anh Bùi Văn Q đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu buộc anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cho chị H 2.000.000 đồng/tháng đến khi cháu Quỳnh thành niên (đủ 18 tuổi). Xét thấy, việc rút yêu cầu nói trên của chị H là hoàn toàn tự nguyện nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của chị H buộc anh Q cấp dưỡng nuôi con cho chị H 2.000.000 đồng/tháng đến khi cháu Quỳnh thành niên (đủ 18 tuổi); nếu sau này chị H khởi kiện lại thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác. Chị H không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.

[4] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Văn Q tự nguyện chung sống với nhau và có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước vào năm 2018. Xét đây là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ đầy đủ các quy định Luật hôn nhân và gia đình. Trong thời gian chung sống chị H và anh Q hạnh phúc được thời gian thì xảy ra mâu thuẩn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cải nhau về kinh tế gia đình, anh Q có hành vi bạo lực chị H nên chị H và anh Q đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay. Tại phiên tòa, chị H xác định cuộc sống hôn nhân giữa chị H và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu ly hôn với anh Q. Đối với bị đơn anh Q, trong quá trình giải quyết vụ án anh Q cũng xác định cuộc sống hôn nhân giữa đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh Q đồng ý ly hôn với chị H. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H.

[4] Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống chị H và anh Q có 01 người con chung tên là Bùi Thị Ngọc Q1, sinh ngày 24/7/2018. Tại phiên tòa chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quỳnh. Xét thấy, yêu cầu được nuôi con là quyền, nghĩa vụ của chị H và anh Q đã được quy định tại điều 58 Luật hôn nhân và gia đình. Hiện nay, cháu Quỳnh dưới 36 tháng tuổi, giữa chị H và anh Q không có thuận khác về việc giao con chung cho ai nuôi. Do vậy, giao cháu Quỳnh cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Thời hạn giao con cho chị H kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Tại phiên tòa, chị H xác định trong thời gian sống chung với anh Q không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng chị Nguyễn Thị H phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội và được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 40, khoản 4 Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, Điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Văn Q.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Bùi Thị Ngọc Q1, sinh ngày 24/7/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Quỳnh thành niên (đủ 18 tuổi). Thời hạn giao con chung cho chị H kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con:

không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

 Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của chị H về yêu cầu anh Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng đến khi con chung cháu Quỳnh thành niên (đủ 18 tuổi) nếu có tranh chấp thì có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

4. Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị H phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu số 0019179 ngày 03/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:13/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về