Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 7 năm 2020 tại Phòng xử án TAND huyện Đắk Song xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 59/2020/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm 1994. (Có mặt) Địa chỉ: thôn 04, xã M, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

Bị đơn: Anh Huỳnh Ngọc S, sinh năm 1995. (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: thôn 11, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông. (Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Đắk Nông).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện đề ngày 22/5/2020, trong bản tự khai, biên bản lấy lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn Chị Lê Thị L trình bày: Chị L và anh Huỳnh Ngọc S kết hôn ngày 24/4/2014, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông; Việc kết hôn dựa trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc, không có sự hòa hợp, anh S không lo làm ăn, vì vậy cuộc sống gia đình rất khó khăn, mâu thuẫn ngày một trầm trọng và hai người đã ly thân từ tháng 9/2019. Vào đầu năm 2020 anh S bị bắt về tội liên quan đến ma túy và hiện tại đang bị giam và phải chấp hành án, đến nay chị L không còn tình cảm với anh S nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với Anh Huỳnh Ngọc S.

Về con chung: Chị L và anh S có 02 con chung: Huỳnh Lê Nhã C, sinh ngày 03/10/2014 và Huỳnh Lê H, sinh ngày 27/01/2017; Chị L có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong biên bản lấy lời khai, bị đơn Anh Huỳnh Ngọc S trình bày: Anh S và Lê Thị L kết hôn năm 2014, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông; Việc kết hôn dựa trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc, không có sự hòa hợp, nguyên nhân là do vợ chồng không cùng quan điểm sống, anh S đồng ý ly hôn với chị L; tuy nhiên hiện nay anh S đang bị tạm giam và sắp tới phải chấp hành án, do đó không thể tham gia phiên tòa, phiên hòa giải nên anh S đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh S và chị L sinh được 02 con chung như chị L đã trình bày; anh S có nguyện vọng sau khi chấp hành án xong được nuôi 01 con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản: Anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và sự tuân theo pháp luật tố tụng của nguyên đơn, bị đơn trong vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn; Bị đơn đã chấp hành nghiêm túc quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên việc xét xử vụ án là đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tố tụng: Đảm bảo đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L ly hôn với Anh Huỳnh Ngọc S; Về con chung: Giao các con chung cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Thẩm quyền giải quyết của Tòa án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Lê Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và vấn đề nuôi con khi ly hôn với anh Huỳnh Ngọc S; anh Huỳnh Ngọc S cư trú tại thôn 11, xã N, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Đắk Song theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS; quan hệ pháp luật yêu cầu giải quyết là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Huỳnh Ngọc S đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật trên cơ sở tự nguyện. Các đương sự đều thừa nhận, đời sống hôn nhân giữa chị L và anh S thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và bất hòa, nguyên nhân là do cả hai không cùng quan điểm sống. Hiện nay chị L và anh S đều không còn tình cảm với nhau. Hội đồng xét xử nhận định mâu thuẫn giữa chị L và anh S là trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị L ly hôn với anh S.

[3].Về con chung: Hiện nay anh S đang bị giam giữ vì liên quan đến tội phạm về ma túy; do đó không có điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc các con; Do đó cần giao các con cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là đảm bảo quy định của pháp luật; vì vậy HĐXX chấp nhận.

[4].Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5].Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Áp dụng Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lê Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L ly hôn anh Huỳnh Ngọc S.

2. Về con chung: Giao các con Huỳnh Lê Nhã C, sinh ngày 03/10/2014 và Huỳnh Lê H, sinh ngày 27/01/2017 cho chị Lê Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con đến tuổi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị L không yêu cầu anh Huỳnh Ngọc S cấp dưỡng nuôi con.

Anh Huỳnh Ngọc S có quyền thăm nom con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông theo biên lai số 0001685 ngày 28 tháng 5 năm 2020.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:13/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về