TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 135/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vì Thị QN; sinh năm: 1998; nơi cư trú: Thôn C, xã C(nay là thị trấn N), huyện N, tỉnh Thanh Hoá.
- Bị đơn: Anh Phạm Văn QA; sinh năm: 1987; nơi cư trú: Thôn C, xã C(nay là thị trấn N), huyện N, tỉnh Thanh Hoá.
Tại phiên toà có mặt anh QA, vắng mặt chị QN. Chị QN đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 22/6/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vì Thị QN trình bày: Chị và anh Phạm Văn QA kết hôn tự nguyện, đã tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục địa phương từ năm 2015, nhưng mãi đến ngày 27/6/2016 mới đi đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã C(nay là thị trấn N), huyện N, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận được 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm. Vợ chồng chị đã sống ly thân 01 năm nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh QA.
Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Văn H, sinh ngày 22/01/2016. Nếu ly hôn, chị giao cháu H cho anh QA trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Chị QN không yêu cầu Toà án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Phạm Văn QA trình bày: Về ngày kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như nguyên đơn trình bày. Trong thời gian chung sống, vợ chồng vẫn yêu thương, chăm sóc nhau bình thường, không có mâu thuẫn gì. Đến ngày 15/10/2019, khi vợ chồng đang làm nhà thì chị QN đột nhiên bỏ nhà đi, không nói gì với anh. Hiện chị QN không còn chung sống với anh và con mà ở bên nhà ông bà ngoại. Anh không đồng ý ly hôn.
Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Văn H, sinh ngày 22/01/2016. Nếu ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H.
Nếu chị QN cương quyết ly hôn thì phải cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng theo quy định pháp luật. Tại phiên toà, anh QA yêu cầu chị QN cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 2.000.000đ (Hai triệu đồng).
Về tài sản: Vợ chồng anh có xây dựng được ngôi nhà đổ bê tông trị giá khoảng 50 triệu đồng, làm trên đất của mẹ anh được thừa kế là bà Phạm Thị Định ở Khu phố Cao Xuân, thị trấn N, huyện N, tỉnh Thanh Hoá. Ngoài ra, vợ chồng anh có cho bà Lương Thị Thao (mẹ chị QN) trú tại QA Hiến, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá vay 30 triệu đồng, anh Lương Văn Hùng trú tại Trí Nang, Giao An, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá vay 20 triệu đồng. Tại phiên toà, anh không yêu cầu Toà án giải quyết.
Ý kiến của Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); chị QN đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật, anh QA không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Vì Thị QN được ly hôn anh Phạm Văn QA.
Giao cháu Phạm Văn H, sinh ngày 22/01/2016 cho anh QA trực tiếp nuôi dưỡng. Chị QN phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng).
Thời gian cấp dưỡng từ tháng 09/2020 cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi.
Theo ý kiến trình bày của hai bên đương sự: Chị QN và anh QA thống nhất không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản, không thống nhất được về phần hôn nhân và con cái.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự nhưng anh Phạm Văn QA không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh QA theo quy định tại khoản 3 điều 210 BLTTDS.
Anh QA đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh QA đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.
Chị QN đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228 BLTTDS, Toà án xét xử vắng mặt chị QN.
[2] Về hôn nhân: Chị Vì Thị QN và anh Phạm Văn QA kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 27/6/2016 tại UBND xã C(nay là thị trấn N), huyện N, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm. Hiện hai vợ chồng đã sống ly thân. Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập anh QA lên làm việc để hoà giải đoàn tụ vợ chồng nhưng anh QA đều không có mặt, thể hiện anh QA không thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó chứng tỏ chị QN, anh QA đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nghĩ nên căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị QN được ly hôn anh QA.
[3] Về con cái: Chị QN và anh QA có 01 con chung. Chị QN và anh QA đều có nguyện vọng giao cháu H cho anh QA trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, hiện tại cháu đang ở với anh QA. Để không bị xáo trộn cuộc sống và đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho cháu, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị QN và anh QA, giao cháu H cho anh QA trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thấy, theo anh QA trình bày hiện tại cháu H đang đi học lớp mầm non, chi phí nuôi dưỡng cháu trung bình mỗi tháng khoảng 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Chị QN không có nghề nghiệp ổn định. Trách nhiệm nuôi dưỡng cháu H là của cả chị QN và anh QA. Căn cứ điều kiện thực tế và các quy định của pháp luật, chấp nhận một phần yêu cầu của anh QA, buộc chị QN phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng từ tháng 09/2020 cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi là phù hợp.
[4] Về tài sản: Chị QN, anh QA không yêu cầu nên miễn xét.
[5] Về án phí: Chị QN phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn và cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83; 107; 110 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; 227; 228; 271; 273; 482 BLTTDS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Vì Thị QN được ly hôn anh Phạm Văn QA.
2. Về con cái: Giao cháu Phạm Văn H, sinh ngày 22/01/2016 cho anh QA trực tiếp nuôi dưỡng. Chị QN phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ tháng 09/2020 cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi.
Chị QN có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
Từ khi anh QA có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, hàng tháng chị QN còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự trên số tiền phải thi hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
3. Về án phí: Chị Vì Thị QN phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con chung, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, theo biên lai số AA/2019/0011831 ngày 25/6/2020. Chị QN còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt anh QA, vắng mặt chị QN. Anh QA có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị QN có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con được thi hành ngay, mặc dù bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 28/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về