Bản án 13/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn C, tên gọi khác: Không có; sinh ngày: 22/12/1995 tại U.B, Quảng Ninh. Nơi cư trú: Thôn Năm Mẫu 2, xã T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn T (đã chết) và bà Cù Thị V; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 30/10/2018, tạm giữ đến ngày 05/11/2018, thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm: 1984; Địa chỉ: Thôn N 2, xã T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

*Người làm chứng: Anh Trƣơng Công Đ, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Thôn N 1, xã T, thành phố Uông U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 29/10/2018, anh Nguyễn Văn M (sinh năm 1984, trú tại thôn N 2, xã T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh) đi dự đám cưới tại nhà chú ruột. Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, anh M cùng một số người bạn đi hát tại phòng hát số 666 quán Karaoke P. L do chị Dương Thị L ở thôn N 2, xã T làm chủ. Trong lúc hát, uống bia thì có cả Vũ Văn C cùng một số người khác đang hát ở phòng 888 cũng sang uống cùng. Khoảng 2 tiếng sau do uống nhiều, bị say anh M nằm ngủ trên ghế trong phòng hát 666, còn những người khác lại đi sang phòng 888 hát. Đến khoảng 16 giờ30 phút cùng ngày, khi mọi người đã ra về, C vào phòng hát 666 để lấy chìa khóa xe mô tô của anh M để đi  về thì nhìn thấy anh M đang nằm ngủ trên ghế (trong phòng hát còn có anh Trương Công Đ cũng đang nằm trên ghế), C đi đến, kiểm tra túi quần phía trước, bên phải của anh M lấy chìa khóa xe thì nhìn thấy túi quần phía sau, bên trái của anh M có một tập tiền. Thấy không còn ai ở phòng hát và không có tiền tiêu, C nảy sinh ý định trộm cắp tiền của anh M. C thò tay vào túi quần anh M lấy tập tiền và rút một số tờ mệnh giá 500.000đ rồi để lại tập tiền vào túi quần anh M. Sau khi lấy được tiền của anh M, C cất vào túi quần rồi đi ra ngoài cùng với anh Lê Bá T đi về nhà bạn tên P ngồi chơi. Ngồi một lúc C đi ra quán của bà Đinh Thị L mua kẹo cao su hết 10.000đ. Tại đây C bỏ số tiền vừa trộm cắp của anh M ra đếm được 08 tờ tiền mệnh giá 500.000đ. C quay về đưa anh T 1.740.000đ nhờ ghi “lô” số 44 (anh T cầm số tiền này, nhưng không ghi “lô” hộ C và đã giao nộp lại số tiền trên cho Cơ quan Công an). C tiếp tục nhờ anh T gọi xe taxi của anh Trần Văn H1 chở sang quán điện tử của anh Nguyễn Văn H2 ở xóm Tr, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng chơi game, C nạp tiền chơi game hết 2.200.000đ, đồng thời vay của anh Đào Văn C1 (người trông quán) số tiền 300.000đ để trả tiền taxi cho anh H. C ngồi chơi game đến khoảng 22 giờ 20 phút cùng ngày thì người nhà anh M đến tìm C về giải quyết vụ việc trộm cắp thì C trả chủ quán thêm 50.000đ tiền mua nước và chơi game rồi cùng mọi người ra về. Quá trình điều tra Vũ Văn C khai nhận chỉ có một mình C thực hiện hành vi trộm cắp của anh M 4.000.000đ, gồm 08 tờ tiền mệnh giá 500.000đ, đã chi tiêu như trên. Ngoài ra C không trộm cắp thêm tài sản gì khác.

Tại cáo trạng số: 13/CT-VKSUB ngày 11/01/2019, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo.

- Bị hại anh Nguyễn Văn M khai báo bị mất số tiền 11.500.000đ, nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập chỉ đủ căn cứ xác định Vũ Văn C đã trộm cắp của anh M số tiền 4.000.000đ.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng, nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồithường, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về xử lý vật chứng và các tài sản bị tạm giữ: Số tiền 4.000.000đ do những người liên quan tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra, đề nghị HĐXX trả lại cho bị hại anh Nguyễn Văn M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về việc định tội:

 [2.1] Bị hại anh Nguyễn Văn M có lời khai thể hiện anh bị mất trộm11.500.000đ, nhưng trong quá trình điều  tra, cũng như tại phiên tòa anh M khôngđưa ra được tài liệu, chứng  cứ nào thể hiện việc anh M bị mất trộm số tiền trên,nên không đủ căn cứ để kết tội  bị cáo đã trộm cắp của anh M 11.500.000đ, mà chỉ đủ căn cứ xác định bị cáo đã trộm cắp của bị hại 4.000.000đ.

 [2.2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với vật chứng vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 29/10/2018 tại quán karaoke “P. L”, thuộc thôn N 2, xã T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, lợi dụng lúc anh Nguyễn Văn M ngủ say, Vũ Văn C là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 4.000.000đ của anh M. Hành vi của bị cáo Vũ Văn C đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Về Hình phạt:

 [3.1] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, gây mất trật tự trị an xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư. Bị cáo là người trưởng thành có nhận thức đầy đủ về hành vi mình thực hiện, nhưng chỉ vì coi thường pháp luật, thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân, bị cáo đã phạm tội. Vì vậy phải có mức hình phạt  tương xứng với hành vi phạm tội của bịcáo mới đảm bảo tính răn đe,  giáo dục bị cáo.

 [3.2] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. HĐXX sẽ xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

 [3.3] Về tình tiết tăng nặng: không có.

 [3.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng theo quy định tại các điểm i, s khoản1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

 [3.5] Về hình phạt chính: Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy không cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật, nhằm giúp bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

 [3.6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) đến 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, nên HĐXX không xem xét.

 [5] Về xử lý vật chứng: Số tiền 4.000.000đ bị cáo trộm cắp của anh Mừng, bị cáo đã dùng để mua kẹo cao su, đánh “lô” và chơi điện tử, Cơ quan điều tra đã thu hồi toàn bộ số tiền trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí. HĐXX xét thấy số tiền trên là do bị cáo trộm cắp của anh Nguyễn Văn M, nên trả lại cho anh M.

 [6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố

Bị cáo Vũ Văn C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Văn C 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12(mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên  án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, thành phố U trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người đượchưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định  của pháp luật về thi hành án hình sự.

2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị hại anh Nguyễn Văn M (trú tại thôn N, xã T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh) số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng), theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/01/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Uông Bí với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Vũ Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị hại, báo cho biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về