Bản án 13/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại Nhà văn hóa khóm 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2019/TLST-HS ngày 01/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến V, sinh ngày 17 tháng 10 năm 1991 tại Quảng Trị; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1970 và bà Trần Thị Thanh X, sinh năm 1971; vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1995; có 01 con, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có măt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Ph, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Quang D, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 11 Quang Trung, khu phố 1, phường 2, thị xã Qu, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quá trình đi làm việc tại thôn Ph, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Tiến V thấy nhà chị Nguyễn Thị Thu H, địa chỉ: Thôn Ph, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị có xe mô tô hiệu Airblade để ở sân nên nảy sinh ý định chiếm đoạt.

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 27/4/2019, V điều khiển xe mô tô BKS: 74C1-258.50 của vợ mình là Nguyễn Thị L từ nhà của bố, mẹ vợ ở thôn T, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Quảng Trị đến quán cà phê Aloha ở số 19 đường Hai Bà trưng, thị xã Qu để uống cà phê. Tại đây, V gửi xe mô tô ở quán và gọi taxi chở đến nhà chị H. Khi đến nơi, V đứng quan sát thấy xe mô tô nhãn hiệu Airblade BKS: 74F1-043.53 dựng ở sân, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện. Lợi dụng lúc chị H không để ý, V mở cổng đi vào, sau đó dắt xe mô tô ra đường rồi khởi động máy và chạy về hướng thị xã Qu. Khi nghe tiếng xe nổ máy, chị H phát hiện vừa đuổi theo vừa tri hô nhưng không kịp. Để tránh bị phát hiện, lúc điều khiển xe đến Cầu Trắng, thị xã Qu, V chạy xe băng qua Quốc Lộ 1A, vào đường đất đỏ song song với mương thủy lợi Nam Thạch Hãn, rồi đến đoạn đường vắng thì dừng lại, mở cốp xe ra kiểm tra, thấy bên trong có 01 cái cờ lê, 01 áo mưa, 01 bịch nilong bên trong có giấy bảo hiểm xe mô tô, giấy phép lái xe hạng A1 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Thu H. V lấy cờ lê tháo biên số 74F1-043.53 vứt vào bụi cây bên đường, còn cờ lê, áo mưa, bịch nilong đựng giấy phép lái xe và đăng ký xe V vứt xuống mương thủy lợi. Xong, điều khiển xe đến gửi tại nhà xe của Bệnh viện Tr, rồi gọi taxi quay lại quán cà phê Aloha lấy xe mô tô để về nhà.

Khoảng 11 giờ ngày 28/4/2019, V nhờ vợ chở đến Bệnh viện Tr để lấy xe mô tô trộm cắp được hôm trước và nói dối với vợ đây là xe mới mua. Sau đó, V điều khiển xe đến quán sửa xe của anh Hoàng Quang D ở số 11 đường Quang Trung, thị xã Qu là người quen của V. Tại đây, anh D không có ở quán nên V tự mình lấy đồ nghề tháo gương chiếu hậu bên trái, giá đỡ bằng inox (kẹp lườn), rồi lấy máy mơn mài xóa số khung, số máy, sau đó đưa xe đi rửa và lấy xi đánh giày, đánh các vị trí có sơn màu đen để làm mới xe và lấy biển số 74F1-230.27 gắn vào xe mô tô nhằm tránh bị phát hiện. Cùng lúc đó, anh D về đến quán, thấy vậy nên hỏi về nguồn gốc xe, thì V nói dối là xe mới mua với giá 6.000.000 đồng, xe không có giấy tờ, nếu có ai muốn mua thì nhờ D bán lại để kiếm lời, nếu không thì để sử dụng. Sau khi chỉnh sửa xe xong V mang sang nhà ông Hoàng Đình Ph ở số 9 đường Quang Trung, thị xã Qu để gửi.

Theo kết luận định giá tài sản số 25/KL-ĐGTS ngày 13/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Airblade BKS: 74F1-043.53 và kẹp lườn bằng Inox có trị giá là 22.200.000 đồng (Hai mươi hai triệu hai trăm ngàn đồng).

Bản cáo trạng số 11/2019/CT-VKSHL ngày 01/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Trị truy tố Nguyễn Tiến V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Tiến V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Tiến V từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản nên không xem xét Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R1011, võ máy màu xanh, số imeell: 8611717028539832, số imell: 867717028539824 trong máy có gắn thẻ sim số 0911779192.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 biển kiểm soát 74F1-230.27.

- Trả lại cho anh Hoàng Quang D 01 máy mơn nhãn hiệu MaKiTa.

Tại phần tranh luận: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Vào ngày 27/4/2019, Nguyễn Tiến V đã có hành vi lén lút, mở cổng đi vào sân nhà và chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thu H một xe mô tô nhãn hiệu Airblade BKS 74F1-043.53 có trị giá là 22.200.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Tiến V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năm hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[5]. Đối với ông Hoàng Đình Ph, anh Hoàng Quang D và chị Nguyễn Thị L không biết xe mô tô nhãn hiệu Airblade BKS: 74F1-043.53 do bị cáo trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

- Xe mô tô nhãn hiệu Airblade BKS: 74F1-043.53 và giá đỡ bằng Inox Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng với quy định của pháp luật.

- Biển kiểm soát 74F1-230.27 không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy,

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R1011, võ máy màu xanh, số imeell: 8611717028539832, số imell: 867717028539824 trong máy có gắn thẻ sim số 0911779192 là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 máy mơn nhãn hiệu MaKiTa phía trên đầu máy có gắn lưỡi mơn hình tròn đường kính 10cm, chiều dài máy mơn 28cm, phần dây diện nối dài 250cm (đã qua sử dụng) là tài sản của anh Hoàng Quang D nên trả lại cho anh D.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Nguyễn Tiến V 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/9/2019).

Giao bị cáo Nguyễn Tiến V cho U ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R1011, võ máy màu xanh, số imeell: 8611717028539832, số imell: 867717028539824 trong máy có gắn thẻ sim số 0911779192.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 biển kiểm soát 74F1-230.27.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho anh Hoàng Quang D 01 máy mơn nhãn hiệu MaKiTa.

(Hiện vật chứng hiện có ở kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện H theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2019).

3. Về án phí: Áp dụng điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về