Bản án 13/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2019/HSST ngày 08 tháng 3 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 04/2018/HSST-QĐ ngày 26/3/2019đối với bị cáo:

Ly A D. Tên gọi khác: không. Sinh năm 1997 tại huyện T, tỉnh Sơn La. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản M, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ly Chứ C, sinh năm 1966 và bà: Vàng Thị N. Sinh năm: 1967; Bị cáo chưa có vợ, chưa có con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2018, giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 25/11/2018, Ly A D mang theo 950.000 đồng đi bộ từ nhà tại bản M, xã C, huyện Mai Sơn đến Tiểu khu Q, xã C tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực cầu bê tông cuối bản M, xã C, D gặp một người đàn ông không quen biết, người này hỏi D có mua hồng phiến không thì bán giá rẻ cho, D đưa 950.0000 đồng và nhận 02 gói đều được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, bên trong đều chứa các viên nén màu hồng cất vào túi quần phía sau bên phải đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng ma túy, còn người đàn ông đi đâu làm gì D không biết.

Hồi 14 giờ 00 ngày 25/11/2018, D đi đến khu vực nương mía thuộc tiểu khu Q, xã C, huyện Mai Sơn thì bị tổ công tác Công an xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ yêu cầu D nếu có ma túy thì tự giác giao nộp. D đã tự giác lấy từ trong túi quần sau bên phải đang mặc 02 gói đều được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, gói thứ nhất bên trong có chứa 12 viên nén màu hồng, gói thứ hai bên trong có chứa 25 viên nén màu trên bề mặt mỗi viên đều có ký tự WY nghi là ma túy tổng hợp giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D, niêm phong thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên và thu giữ của D 01 điện thoại di động hiệu HTC vỏ màu đen không có sim, 01 điện thoại di động hiệu ZIP1.8.2 vỏ màu xanh đen kèm theo 01 sim.

Cùng ngày, cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định đối với số ma túy đã thu giữ của Ly A D. Kết quả: Gói thứ nhất: Tổng khối lượng 12 viên nén màu hồng, một mặt mỗi viên đều có ký hiệu “WY” là 1,196 gam, trích rút 0,978 gam ký hiệu M1 để giám định, vật chứng còn lại 0,218 gam ký hiệu T1. Gói thứ hai: Tổng khối lượng 25 viên nén màu hồng, một mặt mỗi viên đều có ký hiệu “WY” là 2,451 gam, trích rút 0,976 gam ký hiệu M2 để giám định, vật chứng còn lại 1,475 gam ký hiệu T2.

Ngày 29/11/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 17/KLMT, kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 là ma tuý; Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,954 gam. Khối lượng ma túy thu giữ là 3,647 loại Methamphetamine”.

Tại phiên tòa, bị cáo Ly A D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 14/CT-VKSMS ngày 08/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Ly A D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo Ly A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Ly A D từ 42 đến 48 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư do Công an huyện Mai Sơn phát hành bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu cùng các mảnh nilon gói ma túy ban đầu, tang vật còn lại là 1,693gam methamphetamine.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC, vỏ màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ZIP 1.8-2, vỏ màu đen.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Tại phiên tòa, bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Ly A D khai nhận: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 25/11/2018, bị cáo đã mua 950.000 đồng ma túy mục đích để sử dụng. Cùng ngày, Ly A D bị tổ công tác công an huyện Mai Sơn bắt quả tang, thu giữ 3,647 gam Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 25/11/2018 của tổ công tác xã C, huyện Mai Sơn; biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn; phù hợp với kết luận giám định số 17 ngày 29/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La, phù hợp với biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn.

Như vậy, với việc tàng trữ tổng số 3,647 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Ly A D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng số: 14/CT-VKS ngày 08/3/2019 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo. 

Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

....

c) Heroine, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;"

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, dân sự, nhận thức rõ được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông, buôn bán ma túy.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy: Bị cáo Ly A D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng với lỗi cố ý. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo khi lượng hình.

Từ sự nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù giam để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, từ đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh của Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xét thấy: Bị cáo sống phụ thuộc vào gia đình, không có tài sản riêng có giá trị. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 1,693 gam Methamphetamine còn lại được đựng trong 01 phong bì thư do Công an huyện Mai Sơn phát hành là vật chứng ban đầu, thuộc loại chất độc dược Nhà nước cấm lưu hành và các mảnh ni non ban đầu là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần được tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu HTC, vỏ màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ZIP 1.8-2, vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo, xác định là tài sản của bị cáo, không có căn cứ xác định bị cáo sử dụng vào việc mua ma túy. Do đó, cần trả lại bị cáo.

[7] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy D khai mua của người đàn ông không quen biết tại khu vực Tiểu khu Q, xã C. Quá trình mua bán troa đổi không ai biết, chứng kiến. Do đó, không có căn cứ để điều tra xác minh.

[8] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Ly A D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Ly A D 42 (Bốn mươi hai) tháng tù giam. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 25/11/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư do Công an huyện Mai Sơn phát hành bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu cùng các mảnh nilon gói ma túy ban đầu, tang vật còn lại là 1,693gam methamphetamine.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC, vỏ màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ZIP 1.8-2, vỏ màu đen.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Ly A D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 16/4/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về