Bản án 13/2019/HSST ngày 12/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 13/2019/HSST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2019/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/ QĐXXST- HS ngày 27 tháng 02 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hải M - tên gọi khác: không; giới tính: Nam Sinh ngày 04/11/1969 tại Lào Cai Nơi cư trú: Thôn S , xã V , thành phố L , tỉnh Lào Cai Nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Như H (đã chết) và bà Trần Thị H , sinh năm 1943; có vợ Bùi Thanh Hiền, sinh năm 1971; có 02 con Nguyễn Minh Hiếu, sinh năm 2006 và Nguyễn Phương Thảo, sinh năm: 2013, hiện ở với mẹ tại thôn Thôn Sơn Mãn 3, xã Vạn Hòa, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; tiền án: có 01 tiền án: Bản án số 89/HSST ngày 15/6/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 07 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phạt 20.000.000đ( Hai mươi triệu đồng) sung quỹ nhà nước và phải chịu 50.000đ( Năm mươi ngàn đồng) tiền án phí HSST, ngày 28/4/2005 bị cáo chấp hành xong hình phạt. Phần án phí và tiền phạt đến nay bị cáo chưa thi hành xong, chưa được xóa án tích; tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/12/2018. Hiện đang bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai - có mặt

* Người chứng kiến: Anh Trịnh Nam T; Địa chỉ: Thôn C , xã V thành phố L , tỉnh Lào Cai- vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 04/12/2018, bị cáo Nguyễn Hải M điều khiển xe máy đi từ nơi ở tại số nhà 032, đường P , thôn S , xã V , thành phố L đến khu vực cầu Kim Tân thuộc phường Kim Tân, thành phố Lào Cai mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Bị cáo thấy một người nữ giới tên là Tuyết (không biết tuổi, địa chỉ) đứng ở tại điểm chờ xe buýt nên điều khiển xe máy tiến lại gần và nói “bán cho một trăm năm mươi nghìn tiền hàng”, đồng thời đưa 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) cho Tuyết. Tuyết cầm tiền và đưa cho bị cáo 03 (ba) gói giấy màu trắng, bị cáo biết đó là 03 gói ma túy Heroine (Hêrôin). Bị cáo cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong túi quần bên trái đang mặc và điều khiển xe về nhà. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Công an xã Vạn Hòa đến nhà bị cáo để vận động tuyên truyền cai nghiện. Tại đây, bị cáo khai nhận bản thân là người nghiện ma túy; tổ công tác đã mời bị cáo Nguyễn Hải M về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Vạn Hòa để làm việc, quá trình làm việc bị cáo khai đang cất giấu ma túy trên người. Tổ công tác đã mời ông Trịnh Nam Thượng chứng kiến quá trình kiểm tra, bị cáo tự lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc ra 03 (ba) gói giấy màu trắng, bên trong đều chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục. Bị cáo Nguyễn Hải M khai đó đều là ma túy Heroine (Hêrôin) mua về, mục đích là để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng đúng quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ của bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hải M.

Ngày 05/12/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai ra Quyết định trưng cầu giám định số 15 giám định về ma túy. Tại biên bản mở niêm phong vật chứng ngày 06/12/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định; 03 (ba) gói giấy màu trắng, bên trong cả 03 gói giấy này đều chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục. Tổng khối lượng của số chất bột khô, màu trắng, vón cục này là 0,14 (không phẩy mười bốn) gam. Trích 0,05 gam từ 0,14 gam chất bột khô, màu trắng để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 0,09 gam được tái niêm phong vào bì thư in sẵn của Phòng KTHS- Công an tỉnh Lào Cai hoàn trả cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 11/GĐMT ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,14 (không phẩy mười bốn) gam chất bột khô, màu trắng, vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).

Đối với người nữ giới tên Tuyết đã bán ma túy cho bị cáo tại vực cầu Kim Tân, với giá 150.000 đồng. Do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai không điều tra làm rõ được; khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau.

Bản cáo trạng số 09/KSĐT ngày 21/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Hải M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Hải M có hành vi tàng trữ trái phép 0,14 gam Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Hải M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung “Phạt tiền” đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,09( không phẩy không chín) gam Heroine (Hêrôin) còn lại sau trích mẫu giám định được tái niêm phong.

Trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hải M.

Ngoài ra, còn đề nghị tuyên án phí hình sự sơ thẩm; tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiển sát viên Viện kiển sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy, để có ma túy sử dụng bị cáo, nên khoảng 16 giờ 30 phút ngày 04/12/2018 bị cáo điều khiểm xe máy từ số nhà 032, đường P, thôn S , xã V,thành phố L đến khu vực đầu cầu Kim Tân với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Bị cáo gặp một người phụ nữ tên T mua 03 gói ma túy Heroine (Hêrôin) mua ma túy với giá 150.000đ( Một trăm năm mươi ngàn đồng), bị cáo cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong túi quần bên trái đang mặc và điều khiển xe về nhà. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Công an xã Vạn Hòa đến nhà bị cáo để vận động tuyên truyền cai nghiện, bị cáo khai nhận đang cất giấu ma túy trên người. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng đúng quy định.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận ngày ngày 04/12/2018 bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,14 (không phẩy mười bốn) gam Heroine (Hêrôin) mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nhận thức rõ pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng vì nghiện chất ma túy, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thiếu rèn luyện bản thân, để có ma túy sử dụng bị cáo đã coi thường pháp luật đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của nhà nước ta, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, cần có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cần áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án: tại bản án số 89/HSST ngày 15/6/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 07 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phạt 20.000.000đ( Hai mươi triệu đồng) sung quỹ nhà nước và phải chịu 50.000đ( Năm mươi ngàn đồng) tiền án phí HSST, ngày 28/4/2005 bị cáo chấp hành xong hình phạt. Phần án phí và tiền phạt đến nay bị cáo chưa thi hành xong. Do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi phạm tội trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định:“ Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc cấm làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, đang ở cùng với gia đình.Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng, xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã thu giữ của bị cáo 01 túi li lon mầu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể mầu trắng có trọng lượng là 0,14 (không phẩy mười bốn) gam Heroine (Hêrôin); Cơ quan giám định đã trích mẫu 0,05 gam từ 0,14 gam Heroine (Hêrôin) để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 0,09( không phẩy không chín) gam Heroine (Hêrôin) được tái niêm phong hoàn lại cơ quan trưng cầu. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm lưu hành. Vì vậy, cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hải M không liên quan đến hành vi phạm tội. Vì vậy cần trả lại cho bị cáo là phù hơph với điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải M 01(một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo 04/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,09( không phẩy không chín) gam Heroine (Hêrôin) được tái niêm phong trong 01 bì thư có ghi: Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Hải M có hành vi phạm tội về ma túy, phát hiện (thu giữ) ngày 04/12/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Vạn Hòa thuộc thôn Giang Đông, xã Vạn Hòa, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Trả lại cho bị cáo 01( một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hải M. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/01/2019)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự"

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HSST ngày 12/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:13/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về