TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 13/2019/HSPT NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2019/TLPT-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Trần Minh L; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2018/HS-ST ngày 06 tháng 12 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
* Bị cáo có kháng cáo:
Trần Minh L, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2000 tại Hà Nam. Nơi cư trú: tổ 8, phường Q, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh T và NLQ2; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 20/6/2013 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 30/02/2015 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 05/4/2015 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 12/4/2015 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/7/2015 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 11/8/2015 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 26/8/2015 Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; ngày 26/8/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý ra Quyết định số 15/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).
* Người bị hại không kháng cáo: Chị Bạch Thị Phương A, sinh năm 1981 (vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ 8, phường Q, thành phố P, tỉnh Hà Nam.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:
1/ NLQ1, sinh năm 1982 (vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ 11, phường H, thành phố P, tỉnh Hà Nam.
2/ NLQ2, sinh năm 1979 (có mặt).
Địa chỉ: Tổ 8, phường Q, thành phố P, tỉnh Hà Nam.
3/ NLQ3, sinh năm 1985 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn C, thị trấn K, huyện T, tỉnh Hà Nam.
* Người làm chứng: Chị Ngô Thị H, sinh năm 1985 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 00’ ngày 24 tháng 7 năm 2018, Trần Minh L điều khiển xe Mô tô biển kiểm soát 90B2-728.18 đi ngang qua nhà Chị Bạch Thị Phương A. L thấy nhà chị Phương A không khóa cổng, cửa ngách mở hé, L nảy sinh ý định vào lấy trộm tài sản. L đi vào trong sân, mở cửa ngách vào trong phòng ngủ phát hiện thấy 01 túi xách tay màu đen để ở dưới đất, cạnh bàn trang điểm. L mở túi thấy có chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL INSPIRON 7559 vỏ màu đen. L lấy chiếc máy tính cất vào người rồi đi ra ngoài. Sau đó, L đi đến cửa hàng máy tính Hoàng Hà bán cho NLQ3 là nhân viên của cửa hàng do NLQ1 làm chủ được 3.500.000đ. Số tiền này L đã tiêu sài cá nhân hết. Chiếc máy tính NLQ1 đã bán lại cho một người không quen biết.
Ngày 22/8/2018, Trần Minh L đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đầu thú.
Ngày 29/8/2018, tại Bản kết luận số 67/2018, Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý đã định giá chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL INSPIRON 7559 vỏ màu đen đã qua sử dụng trị giá 8.500.000đ.
Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Trần Minh L đã bồi thường toàn bộ số tiền 8.000.000đ cho bị hại. Người bị hại không có yêu cầu về bồi thường dân sự và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2018/HS-ST ngày 06/12/2018 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã tuyên bố: Bị cáo Trần Minh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 90, Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự; xử phạt Trần Minh L 12 (mười hai) tháng tù. Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Trong thời hạn luật định, ngày 17/12/2018 bị cáo Trần Minh L kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Trần Minh L; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2018/HS-ST ngày 06/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung đơn kháng cáo: Bị cáo Trần Minh L kháng cáo trong thời hạn luật định, đơn kháng cáo thể hiện đầy đủ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự, đơn hợp lệ cần được cấp phúc thẩm xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Minh L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07h00’ ngày 24/7/2018, Trần Minh L đã lén lút vào nhà Chị Bạch Thị Phương A ở tổ 8, phường Q, thành phố P, tỉnh Hà Nam, lợi dụng sơ hở L chiếm đoạt 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL INSPIRON 7559 vỏ màu đen trị giá 8.500.000đ, L đã bán chiếc máy tính được 3.500.000đ và tiêu sài hết. Với hành vi trên, bị cáo Trần Minh L đã bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Trần Minh L, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: Chỉ vì muốn có tiền mà không phải lao động, bị cáo đã thực hiện trộm cắp tài sản để chi tiêu cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo xuất trình Kỷ Niệm chương Chiến sỹ bảo vệ thành cổ Quảng Trị năm 1972, Huân chương kháng chiến Hạng Nhì, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng của ông Trần Khắc G là ông nội bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, xét nhân thân bị cáo tuy tuổi đời còn trẻ nhưng đã nhiều lần, liên tiếp bị xử phạt Cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Từ năm 2015 đến năm 2017 bị đưa vào trường giáo dưỡng nhưng không chịu học tập, rèn luyện, chưa có ý thức sửa chữa, cải tạo, vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo tự giác ra đầu thú, chủ động tác động để gia đình tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; người bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, nên áp dụng quy định của pháp luật đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo với mức án 12 tháng tù là phù hợp, không nặng; cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội và phòng ngừa tội phạm chung vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm:
Kháng cáo của bị cáo Trần Minh L không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Trần Minh L; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2018/HS-ST ngày 06/12/2018 của Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38; Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Minh L 12 (mười hai) tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Trần Minh L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 13/2019/HSPT ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 13/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về