Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 14/06/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 14/6/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2019/TLST-HNGĐ ngày 16/01/2019 về về việc "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/5/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2019/QĐST-HNGĐ ngày 31/5/2019, giữa:

*Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1987; Trú tại: Đường T, phường H, thành phố A, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

* Bị đơn: Ông Trần Quốc H, sinh năm: 1986; Trú tại: Thôn P, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn – bà Nguyễn Thị T trình bày: Tôi và anh Trần Quốc H kết hôn với nhau vào năm 2012, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung tại địa chỉ trên.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, tính cách vợ chồng khác biệt, không quan tâm chia sẽ cho nhau, khiến vợ chồng thường xuyên tranh cãi, làm cho mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng cũng đã cố gắng hàn gắn với nhau để vun đắp hạnh phúc nhưng mâu thuẫn vợ chồng không những cải thiện mà ngày càng trầm trọng, khoảng cách ngày càng lớn. Từ năm 2012 đến nay tôi và ông H đã không còn chung sống với nhau nữa. Tôi về nhà cha mẹ sống tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, còn anh H sống tại nhà cha mẹ tại thôn P, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Nay, tôi xác định về tình cảm không còn thương yêu anh H nữa nên yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho tôi được ly hôn.

Về con chung: Tôi và anh H có 01 con chung tên là Trần Quốc K, sinh ngày 03/4/2012 hiện nay tôi vẫn đang nuôi dưỡng. Ly hôn, tôi yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tôi và anh Trần Quốc H không có tài sản chung và cũng không ai nợ nần vợ chồng tôi.

*Đối với bị đơn - ông Trần Quốc H: Mặc dù đã được Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và H giải để trình bày ý kiến, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không có lời khai.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung, đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị T đối với ông Trần Quốc H. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà Nguyễn Thị T và ông Trần Quốc H giao con chung tên là Trần Quốc K, sinh ngày 03/4/2012 cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Trần Quốc H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bên không nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Trần Quốc H xác định không có nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: bà Nguyễn Thị T khởi kiện vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc "Ly hôn" đối với ông Trần Quốc H; Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang đã thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo trình tự tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án được quy định tại Điều 191, Điều 195 và khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị T và ông Trần Quốc H kết hôn với nhau vào năm 2012, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện có thời gian tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân theo bà T là do vợ chồng khác biệt về tính cách, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải vã. Vợ chồng không có sự đồng cảm quan tâm lo lắng, không chia sẽ cho nhau. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng từ năm 2012 đến nay vợ chồng không còn chung sống với nhau nữa. Mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Xét yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị T đối với ông Trần Quốc H, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Trong thời gian chung sống giữa vợ chồng bà T và ông H đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do luôn bất đồng về quan điểm sống, không có Tg nói chung trong cuộc sống, tính tình không hợp. Mặc dù ông bà cũng đã nhiều lần cố gắng để hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không đạt được kết quả. Hiện tại bà T và ông H đã sống ly thân, vợ chồng không còn yêu thương, quý trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Mâu thuẫn của ông bà đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, bà cũng không còn tình cảm yêu thương ông H. Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do, điều đó thể hiện ông H cũng không muốn hàn gắn lại lại tình cảm với bà T.

Theo biên bản xác minh ngày 19/02/2019 của Tòa án thì bà T và ông H không còn sống chung với nhau, ông H vẫn sống tại địa phương còn bà T ở đâu địa phương không rõ. Xét thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng của bà T và ông H đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên HĐXX nghĩ cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T và ông H là phù hợp với Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Bà T xác định và và ông H có 01 con chung tên là Trần Quốc K, sinh ngày 03/4/2012. Ly hôn, bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị T về việc được nuôi con chung Trần Quốc K, sinh ngày 03/4/2012 thì thấy: Hiện nay, cháu Khánh đang sinh sống cùng mẹ, mặt khác nguyện vọng của cháu K cũng mong muốn được ở cùng mẹ để thuận tiện trong việc đưa đón đi học và chăm sóc nuôi dưỡng. Vì vậy, để không làm xáo trộn tâm lý cũng như ảnh hưởng việc chăm sóc, học hành HĐXX thấy cần giao cháu Trần Quốc K cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ông Trần Quốc H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bên không nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Trần Quốc H đều xác định không có tài sản chung nên HĐXX không đề cập.

[5] Án phí hôn nhân gia đình bà Nguyễn Thị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và Gia đình; Các Điều 227, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Trần Quốc H.

2. Về con chung: Giao con Trần Quốc K, sinh ngày 03/4/2012 cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Trần Quốc H không không phải cấp dưỡng nuôi con. Bên không nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

*Án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002080 ngày 16/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H Vang, thành phố Đà Nẵng.

Án xử sơ thẩm, nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 14/06/2019 về ly hôn

Số hiệu:13/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về