Bản án 13/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 13/2019/DS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2019/TLST-DS ngày 26 tháng 7 năm 2019 về việc: “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q - Sinh năm: 1982 (có mặt)

Nơi ĐKHKTT: Xã L, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai

Địa chỉ hiện tại: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hoá

2. Bị đơn: Bà Phan Thị H - Sinh năm: 1957 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hoá.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 6 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Q trình bày:

Chị và bà Phan Thị H là người cùng thôn và là họ hàng thân thiết nên chị đã cho bà H vay tiền để kinh doanh, cụ thể như sau:

- Ngày 25/01/2017 (âm lịch), chị cho bà Phan Thị H vay số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), hai bên có thỏa thuận khi nào chị cần tiền thì báo trước cho bà H từ 05 đến 10 ngày để bà H thu xếp trả nợ. Bà H đã ký nhận số tiền đã vay vào sổ của chị vào ngày 25/01/2017 (âm lịch).

- Ngày 30/6/2017, chị cho bà Phan Thị H vay một suất “ống dốc” số tiền là 75.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng).

Như vậy, chị đã cho bà H vay tổng số tiền là 275.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng).

Sau một thời gian, do cần tiền để sử dụng, chị đã nhiều lần gặp bà H để yêu cầu bà H trả nợ nhưng bà H khất lần và không trả nợ số tiền trên.

Trong biên bản làm việc ngày 20/02/2018 tại Công an huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, bà H đã thừa nhận tính đến ngày 09/02/2018 bà còn nợ chị số tiền 275.000.000 đồng, bà H cam kết sẽ trả hết số nợ trên cho chị trước ngày 15/7/2018, nhưng cho đến nay bà H vẫn không trả được nợ.

Vì vậy, chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phan Thị H trả nợ cho chị số tiền 275.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng). Ngoài số tiền nợ gốc nêu trên, chị không yêu cầu bà H phải trả số tiền lãi.

Tại bản tự khai ngày 30/7/2019 bị đơn là bà Phan Thị H trình bày:

Bà thừa nhận đã vay và còn nợ chị Nguyễn Thị Q số tiền 275.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng). Số tiền này, bà đã cho người khác vay lại và họ chưa trả nợ cho bà nên bà chưa thanh toán được cho chị Q. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc những người đã vay tiền của bà trả nợ cho bà thì bà mới có tiền để trả nợ cho chị Q được.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc bà Phan Thị H trả số tiền nợ gốc 275.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng), không yêu cầu trả lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Q khởi kiện yêu cầu bà Phan Thị H trả nợ số tiền đã vay nên đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn bà Phan Thị H có nơi cư trú tại thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hoá nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn Phan Thị H vắng mặt, nhưng đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 3, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà H.

[2] Về yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Về yêu cầu đòi nợ gốc: Các bên đương sự đều thống nhất công nhận số tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn là 275.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng), đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định bị đơn có nợ nguyên đơn 275.000.000 đồng là sự thật. Do đó yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn phải trả 275.000.000 đồng là có cơ sở, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 463, khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[2.2] Về số tiền lãi: Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải trả số tiền lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về yêu cầu của bị đơn: Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc những người đã vay tiền của bà trả nợ cho bà thì bà mới có tiền để trả nợ cho chị Q. Xét thấy, đây không phải ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, cũng không phải là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bà H có quyền khởi kiện tại Tòa án yêu cầu những người đã vay tiền của bà trả nợ cho bà bằng một vụ án dân sự khác nếu đủ điều kiện.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên đến ngày xét xử vụ án, bà H là người cao tuổi (từ đủ 60 tuổi trở lên) nên bà được miễn nộp án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Chị Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 357, Điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bà Phan Thị H phải trả cho chị Nguyễn Thị Q số tiền 275.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng).

2. Kể từ ngày chị Q có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bà H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy đinh khác.

3. Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho chị Q 3.437.500 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số AA/2017/0004144 ngày 26 tháng 7 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

- Bà Phan Thị H được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt chị Q, vắng mặt bà H. Chị Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:13/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về