Bản án 13/2018/HS-ST ngày 16/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRUỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 13/2018/HS-ST NGÀY 16/03/2018 VỀ TỘI  MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định  xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số10/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xétxử số 14/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Đ T, sinh năm 1979 tại xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm26, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa:4/12; giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; con ông Vũ Ngọc Phích và bà Trịnh Thị Lan; gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ năm; có vợ là chị Phạm Thị Mừng, có 03 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2013, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xử phạt 3 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản"; bị bắt, tạm giữ từ ngày 18/12/2017, ngày 21/12/2017 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

Người làm chứng: NLC; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 18/12/2017, Vũ Đ T đang đứng ở khu vực ngã tư trung tâm huyện Xuân Trường thuộc Tổ 18, thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường thì gặp NLC đi đến. Qua dò hỏi, NLC nói với bị cáo T là đi mua cho NLC01 gói Heroin giá 200.000 đồng và NLC sẽ trả công 100.000, bị cáo T đồng ý,nhận 200.000 đồng của NLC đưa. Sau đó, bị cáo T bảo NLC đứng chờ ở đó, còn bị cáo T đi nhờ ô tô khách đến xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Bị cáo T xuống xe, đi bộ vào chợ xã Giao Tiến mua của một người đàn ông 200.000 đồng được 01 gói nhỏ, bên ngoài gói bằng giấy báo, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, bị cáo T xác định là Heroin, cất vào trong người và đi bộ ra đường quốc lộ rồi bắt xe khách về. Khi đến khu vực ngã tư trung tâm thị trấn, bị cáo T xuống xe gặp NLC như giao hẹn. Tại đây, bị cáo T đưa cho NLC 01 gói nhỏ Heroin, NLC đưa 100.000 đồng trả công cho bị cáo T thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định phát hiện bắt quả tang, thu giữ và niêm phong gói Heroin của bị cáo T vừa bán cho NLC ký hiệu là M và 100.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1023/GĐKTHS ngày 19/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy; loại ma túy là Heroin, khối lượng (trọng lượng): 0,033 gam.

Cáo trạng số 10/CT-VKS, ngày 12/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo Vũ Đ T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị cáo thừa nhận tính đúng đắn, khách quan của các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và khai nhận toàn bộ hành vi nêu trong Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường luận tội đã giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Đ T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt Vũ Đ T từ 30 đến 33 tháng tù; phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 7 triệu đồng; tịch thu tiêu hủy số ma túy, tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng.

Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về luật áp dụng: Hành vi của bị cáo thực hiện tại thời điểm trước ngày 01/01/2018 (thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực) nên áp dụng luật có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hành vi là Bộ luật Hình sự năm 1999 để điều tra, truy tố, xét xử là phù hợp.

[3] Về việc kết tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết hợp với kết luận giám định về số Heroin thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; có đủ cơ sở xác định: 10 giờ 30 phút ngày 18/12/2017, Vũ Đ T đã có hành vi bán trái phép 0,033 gam Heroin cho NLC để kiếm lời 100.000 đồng thì bị bắt quả tang tại Tổ 18, thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Như vậy, Vũ Đ T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, như quan điểm truy tố.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi “Mua bán trái phép chất ma tuý” của bị cáo Vũ Đ T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý, một hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội. Bị cáo có đầy đủ nhận thức về việc lên án của xã hội, sự trừng trị nghiêm khắc pháp luật với tội phạm ma túy, đã thấu hiểu những hệ lụy của ma túy như đã nêu nhưng vì hám lời, bị cáo đã phạm tội nghiêm trọng.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết tội về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt.

[5] Về hình phạt chính: Xét thấy, cần phải xử lý nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù có thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 song cao hơn so với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và phù hợp với chính sách pháp luật hình sự đối với loại tội phạm này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét cần phải xử phạt bổ sung đối với bị cáo Vũ Đ T song thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử áp dụng ở mức thấp theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 199, như quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát.

[7] Về vật chứng, tài sản đã thu giữ: Số Heroin là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy. Số tiền 100.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có nên tịch thu sung Quỹ Nhà nước.

[8] Về hành vi của NLC: Xét hành vi của NLC chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, Cơ quan Công an huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Vũ Đ T: Bị cáo khai không biết tên tuổi, địa chỉ, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không đủ cơ sở kết luận nên đã tách ra để tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[10] Về  án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 194, khoản 5 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999;

1.1. Tuyên bố bị cáo Vũ Đ T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

1.2. Xử phạt bị cáo Vũ Đ T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 18/12/2017;

1.3. Xử phạt bổ sung bị cáo Vũ Đ T số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

2. Về vật chứng: Căn cứ vào điểm a và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy: Số Heroin trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 1023/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; tịch thu sungquỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng do Vũ Đ T phạm tội mà có.

(Chi tiết vật chứng, tài sản thu giữ theo: Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 20/THA ngày 27/02/2018 giữa Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường và Biên lai thu tiền số 05945 ngày 27/02/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường)

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 cùng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo Vũ Đ T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo Vũ Đ T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HS-ST ngày 16/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:13/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về