TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 13/2018/HSST NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 15 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2018/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn M, sinh năm 1977, tại huyện C, tỉnh An Giang.
ĐKHKTT: Ấp K, xã A, huyện C, tỉnh An Giang, chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm rẫy; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Đạo phật giáo hòa hảo; học lực: 3/12; con ông Trần Văn H (không xác định được năm sinh) và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1945; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo nhỏ nhất; vợ: Trần Thị T, sinh năm 1981; có 03 người con: Lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2001. Từ nhỏ sống chung cha mẹ, đi học đến lớp 3 nghỉ, lớn lên có vợ sống bằng nghề làm rẫy.
Tiền án: 01 lần. Ngày 27/4/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xử phạt 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 27/7/2017 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm, xử phạt M 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Đến ngày 15/11/2017 chấp hành xong.
tiền sự: Không.
Bị tạm giam ngày 01/5/2018 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Trần Thị Huyền T1, sinh năm 1992. (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp T, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1967. (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp T, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.
Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1945. (vắng mặt)
Nơi cư trú: Ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.
- Người làm chứng:
Ông Lê Tấn T2, sinh năm 1962. (vắng mặt)
Ông Triệu Văn Thanh T3, sinh năm 1984. (vắng mặt)
Bà Trần Thị T4, sinh năm 1981. (có mặt)
Ông Nguyễn Văn T5, sinh năm 1963. (vắng mặt)
Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1940. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 01/5/2018, sau khi uống rượu, Nguyễn Văn M cầm cây đòn gánh bằng gỗ dài 1,28m; rộng 06cm; dày 2,5cm; cân nặng 0,8kg kiếm chuyện chửi và dùng tay xô đẩy bà Nguyễn Thị V (mẹ ruột của M) làm bà V té ngã xuống đường. Bà V bỏ ra đường cách nhà khoảng 30m thì M đuổi theo dùng tay nắm cổ áo và lôi kéo bà V trên đường làm bà V bị xây xát ở 02 chân, sau đó M tiếp tục đứng la chửi. Lúc này Bà V thấy Trần Thị Huyền T1 điều khiển xe mô tô biển số 67L1 - 816.18 chạy trên đường, V kêu T dừng xe để quá giang. Khi V lên xe để T chở đi khoảng 4m thì M đuổi theo cầm đòn gánh đánh vào cánh tay trái của T 01 cái làm T và bà V té ngã xuống đường. M tiếp tục cần đòn gánh đánh vào cánh tay trái của T 01 cái, sau đó M tiếp tục đánh vào gáy, vào vai phải của T. Hậu quả T bị gãy xương cánh tay trái. M bị công an xã K lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, giao Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C tạm giữ để điều tra.
Vật chứng thu giữ: 01 khúc gỗ tre (đòn gánh) dài 1,28m, rộng 6cm, dầy 2,5cm, cân nặng 800gam.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 88 ngày 07/5/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, đối với Nguyễn Thị V: Tỷ lệ tổn thương cơ thể 00%.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 96 ngày 21/5/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, đối với Trần Thị Huyền T1: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 13%.
Nguyễn Văn M bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C khởi tố, tạm giam điều tra.
Bị hại, người làm chứng và người liên quan: Khai như nội dung vụ án đã nêu. T1 yêu cầu xử lý M, yêu cầu M bồi thường chi phí điều trị thương tích, ngày công lao động, tổn hại sức khỏe, với tổng số tiền 43.141.284 đồng; T không có thai. Riêng V chỉ bị xây xát nhẹ, không ảnh hưởng đến sức khỏe, không yêu cầu M bồi thường.
Trước Cơ quan Điều tra, Nguyễn Văn M khai nhận hành vi cầm đòn gánh đánh gây thương tích cho T1 như nội dung vụ án. Giữa M và T1 không có mâu thuẫn, M đánh T1 do hiểu lầm T1 là người làm gái trước đây có lần chở Bà V. Đồng ý bồi thường theo yêu cầu của T1.
Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 09 tháng 7 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố Nguyễn Văn M về tội "Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội "Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Đề nghị Tòa tuyên buộc Nguyễn Văn M bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và xử lý vật chứng theo quy định.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, người liên quan, người làm chứng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, những người vắng mặt đã có lời khai trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây cản trở cho việc xét xử. Vì vậy, vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người Tiến hanh tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người làm chứng; phù hợp với thương tích trên người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án. Bị cáo biết rõ hành vi dùng khúc gỗ gây thương tích cho người khác là nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng nhưng do bị cáo nóng giận khi thấy bị hại chở mẹ mình nên cầm khúc gỗ đánh vào tay trái của bị hại làm bị hại và bà V ngã xuống đường. Không dừng lại, bị cáo tiếp tục đánh vào cánh tay trái của bị hại làm tay bị hại gãy tay, sau đó đánh vào gáy, vai phải của bị hại. Hành vi của bị cáo đã gây thương tích cho bà T, kết quả gây thương tích cho bà T với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 13%.
Thấy rằng, trước khi sự việc xảy ra, qua lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng thì cách thức bị cáo thực hiện hành vi, công cụ mà bị cáo gây thương tích cho bị hại phù hợp với vết thương trên người bị hại. Về ý thức của bị cáo đối với bị hại là do bị cáo nóng giận tức thời. Bị cáo không có ý định nhắm vào vị trí nào trên cơ thể của bị hại và không có ý định giết người. Vì vậy, không có cơ sở xác định bị cáo muốn tước đoạt tính mạng của bị hại.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi gây thương tích là xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện thông qua cách thức bị cáo thực hiện hành vi. Giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn với nhau mà bị cáo lại cố ý dùng khúc gỗ là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể 13%. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung "dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi của bị cáo:
Sức khỏe là vốn quý của mỗi cá nhân và là nền tảng để mỗi người lao động, phát triển. Chính vì vậy, quyền được an toàn về sức khỏe của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đối với những người xâm phạm đến sức khỏe người khác một cách trái pháp luật, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất, là hình phạt.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội; đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Nguyễn Văn M có 01 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội nên bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Bị cáo M thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5]. Về xử lý vật chứng: 01 (một) khúc gỗ tre (đòn gánh) dài 1,28m, rộng 6cm, dầy 2,5cm, cân nặng 800gam. Đây là công cụ được bị cáo sử dụng gây thương tích cho bị hại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[6]. Về trách nhiệm dân sự:
Tại phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích, ngày công lao động, tổn hại sức khỏe với tổng số tiền 43.141.284 đồng.
Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Xét công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2018.
Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) khúc gỗ tre (đòn gánh) dài 1,28m, rộng 6cm, dầy 2,5cm, cân nặng 800 gam.
(Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/8/2018).
Căn cứ Điều 590 Bộ luật dân sự.
Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại: Bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bà Trần Thị Huyền T1 số tiền 43.141.284 (bốn mươi ba triệu một trăm bốn mươi mốt nghìn hai trăm tám mươi bốn) đồng.
Về án phí: Căn cứ các Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.157.064 (hai triệu một trăm năm mươi bảy nghìn không trăm sáu mươi bốn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với số tiền phải bồi thường) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 13/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 13/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về