TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 13/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2018/QĐXX/HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1983; HKTT: Thôn T, xã S, huyện P, thành phố Hà Nội (có mặt)
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1981; HKTT: Thôn T, xã S, huyện P, thành phố Hà Nội; Hiện đang thụ hình tại Đ23B12 Phân trại 2, Trại giam N (vắng mặt có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 07/6/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Vũ Thị L trình bày như sau:
Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn D trên cơ sở tự nguyện, có đăng kí kết hôn ngày 16/10/2003 tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện P, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội). Sau khi cưới vợ chồng về chung sống cùng gia đình nhà chồng tại thôn T, xã S, huyện P. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn càng trầm trọng hơn khi năm 2006 anh L bị bắt và bị tuyên 20 án tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Từ năm 2006 một mình chị vừa nuôi con vừa thăm nuôi chồng trên trại giam. Tuy nhiên những lần chị lên thăm chồng, hai vợ chồng vẫn mâu thuẫn vẫn cãi nhau khiến chị cảm thấy mệt mỏi trong cuộc hôn nhân này. Đến cuối năm 2014 đến nay chị không còn lên trại giam thăm anh L nữa. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay không còn quan hệ gì. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, thời gian ly thân đã lâu nên chị làm đơn đề nghị được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.
Con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Trí T sinh ngày 10/12/2004, ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không đề nghị anh D cấp dưỡng nuôi con chung vì hiện nay anh D đang ở trong tù cũng không có điều kiện để cấp dưỡng nuôi con chung.
Tài sản chung của vợ chồng: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Công nợ chung: Vợ chồng chị không có công nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là anh Nguyễn Văn D trình bày như sau:
Anh xác nhận điều kiện kết hôn, quá trình chung sống đúng như chị L trình bày. Anh thừa nhận anh bị đi tù từ năm 2006, đến cuối năm 2014 chị L không đi thăm anh nữa vì mâu thuẫn giữa hai vợ chồng. Hiện nay anh đang thụ hình tại Trại giam N. Nay chị L làm đơn ly hôn quan điểm của anh là không đồng ý ly hôn, vì anh muốn vợ chồng giải quyết xong việc chia tài sản chung, sau đó chị L làm đơn ly hôn thì anh cũng nhất trí. Anh D cũng đề nghị được xét xử vắng mặt vì hiện nay anh đang thụ hình trong trại giam không có điều kiện tham gia phiên tòa.
Con chung: Anh xác nhận vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Trí T sinh ngày 10/12/2004, ly hôn anh đề nghị chị L trực tiếp nuôi con chung và đề nghị tạm miễn cấp dưỡng nuôi con chung cho anh vì hiện nay anh đang đi tù không có điều kiện chăm sóc và cấp dưỡng con chung.
Tài sản chung của vợ chồng: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Công nợ chung: Vợ chồng anh không có công nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Theo cung cấp của chính quyền địa phương thôn, xã nơi vợ chồng anh D chị L cư trú thì mâu thuẫn giữa chị L và anh D đã đến mức trầm trọng, thời gian ly thân đã quá lâu, hôn nhân tồn tại chỉ còn là hình thức nên việc giải quyết cho hai anh chị ly hôn là để giải phóng cho cả đôi bên.
Đại diện VKSND tham gia phiên toà xác định:
- Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định về thu thập chứng cứ, chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Các đương sự đã được tạo mọi điều kiện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự; Đương sự có mặt đã thực hiện đây đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình trong suốt quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà.
- Về quan điểm giải quyết vụ án:
Đề nghi Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình xem xét, quyết định:
Về hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị L. Cho chị L được ly hôn anh D.
Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Trí T sinh ngày 10/12/2004 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, tạm miễn cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D đến khi con chung trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác. Anh D có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
Về tài sản chung và công nợ: Không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở lời trình bày của các bên đương sự và quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Đây là vụ án về quan hệ hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Nơi cư trú của bị đơn trên địa bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về quan hệ hôn nhân và yêu cầu của các bên:
Chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Văn D kết hôn do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện P, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) ngày 13/10/2003 (giấy chứng nhận kết hôn số 29), quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn, tình cảm vợ chồng anh chị hạnh phúc thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn càng trầm trọng hơn khi năm 2006 anh D bị bắt về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Mâu thuẫn trầm trọng kéo dài từ cuối năm 2014 đến nay chị L đã không đến thăm nuôi anh D ở trại giam nữa. Vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan hệ tình cảm lẫn kinh tế.
Chỉ có thể lý giải những hiện tượng này trên cơ sở những đổ vỡ từ thực tế cuộc hôn nhân và tình cảm của anh chị chứ không thể đổ lỗi cho một bên được. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L là phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Trí T sinh ngày 10/12/2004. Ly hôn chị L đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không đề nghị anh D cấp dưỡng nuôi con chung, vì anh D hiện đang thụ hình tại Trại giam N nên giao cháu T cho chị L tiếp tục chăm sóc, giáo dục là hợp lẽ.
4.Về tài sản chung: Chị L, anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
Về công nợ: Chị L anh D xác nhận vợ chồng không vay mượn ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét, nếu sau khi ly hôn có tổ chức, các nhân nào đến yêu cầu Tòa án giải quyết về việc vợ chồng vay nợ thì xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
5. Về án phí: Chị Vũ Thị L phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định. Căn cứ Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án thì chị L chịu 300.000đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp.
6. Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, ĐiỀu 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn D.
2. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Trí T sinh ngày 10/12/2004. Giao cháu T cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng và tạm miễn tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh D đến khi cháu Thành trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác.
3. Về tài sản chung: Chị L, anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xét, Về công nợ chung: Chị L, anh D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xét.
4. Về án phí: Chị Vũ Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AE/2010/0005077 ngày 14/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Chị L đã nộp đủ.
5. Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 30/07/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 13/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về