Bản án 13/2017/HSST ngày 15/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 13/2017/HSST NGÀY 15/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2017, tại trụ Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 16/2017/HSST ngày 18/10/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2017/QĐXXST-HS ngày 01/11/2017  đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn T; Tên gọi khác: Không.

Sinh năm: 1989, tại Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 9A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Con ông: Quàng Văn T1, sinh năm 1944 và bà Lò Thị V, sinh năm 1954.

Vợ, con chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/8/2017 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 14/8/2017, Quàng Văn T đi bộ từ nhà tại Đội 9A, xã T, huyện Đ đến khu vực hồ H thuộc xã T, huyện Đ để tìm mua Hêrôin về sử dụng và bán lại cho người khác. Khi đến nơi, T gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi (Không biết tên, địa chỉ) 01 gói Hêrôin được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng với giá 1.800.000 đồng. T cất gói Hêrôin vừa mua được vào túi quần đang mặc rồi đi về. Khi về đến nhà, T chia gói Hêrôin thành 03 gói nhỏ, trong đó: 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng, 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng hơ lửa hàn kín và 01 gói được gói bằng mảnh nilon màu xanh. T cất giấu gói Hêrôin gói bằng mảnh nilon màu trắng miệng hơ lửa hàn kín vào túi áo ngực bên trái chiếc áo khoác màu xám đã cũ của T treo ở cột nhà trong buồng ngủ; gói Hêrôin được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh, T cất giấu ở góc cột nhà; gói Hêrôin còn lại, T lấy ra một ít để sử dụng bằng hình thức hít rồi gói lại bỏ vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long và cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Lò Văn H, sinh năm 1977; nhà ở Đội 9A, xã T, huyện Đ đến nhà T hỏi mua 50.000 đồng Hêrôin, T nhận tiền rồi lấy gói Hêrôin trong túi quần ra cấu một ít và dùng mảnh giấy trắng gói lại đưa cho Hặc. Sau đó, Hặc cầm gói Hêrôin ra khu vực nghĩa trang của xã T, huyện Đ sử dụng hết. Hồi 13 giờ 50 phút cùng ngày, khi T đang ở nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Đ vào nhà phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng, mở bên trong cục bột màu trắng nghi là Hêrôin; 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng; T tự giác giao nộp 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh, mở bên trong cục bột màu trắng nghi là Hêrôin; cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ khám xét khẩn cấp nơi ở của T, qua khám xét đã thu giữ 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng, miệng gói được hơ lửa hàn kín, mở bên trong cục bột màu trắng nghi là Hêrôin.

Ngày 14/8/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng đối với số vật chứng thu giữ của Quàng Văn T, cụ thể:

Số vật chứng bắt quả tang là chất bột màu trắng nghi là Hêrôin có trọng lượng là 0,91 gam, trích 0,07 gam gửi làm mẫu giám định được đánh số M1; số vật chứng thu giữ qua khám xét là chất bột màu trắng nghi là Hêrôin có trọng lượng là 3,86 gam, trích 0,06 gam gửi làm mẫu giám định được đánh số M2.

Tại bản kết luận giám định số 704/GĐ-PC54 ngày 30 tháng 8 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu M1, M2 gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn T là Hêrôin.

Tại bản Cáo trạng số 186/QĐ-VKS-HS ngày 18/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên đã  truy tố  bị cáo Quàng Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, trong lời luận tội đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Quàng Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Quàng Văn T từ 06 năm đến 06 năm 6 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 41 BLHS; điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 50.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 4,77 gam Hêrôin, đã trích 0,13 gam gửi giám định không hoàn lại, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long và 01 chiếc áo khoác màu xám đã cũ là vật chứng của vụ án.

Án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí nội dung Cáo trạng; lời luận tội của đại diện Viên kiểm sát; bị cáo không tranh luận, không có ý kiến bào chữa cho hành vi phạm tội của mình; lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn T một lần nữa thừa nhận: Do bản thân nghiện ma túy, để có ma túy và tiền sử dụng đáp ứng nhu cầu bản thân nên ngày 14/8/2017, tại nhà ở của mình tại Đội 9A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, Quàng Văn T đã có hành vi bán cho Lò Văn H 01 gói Hêrôin, thu được 50.000 đồng; đồng thời cất giấu trên người và tại nơi ở của mình 4,77 gam Hêrôin, mục đích để sử dụng và bán lại cho người khác. Lời khai của bị cáo phù hợp với các bản cung của bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong, mở niêm phong xác định trọng lượng vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đúng với nội dung Cáo trạng. Với các hành vi trên, bị cáo đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi do bản thân đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ và hậu quả của tội phạm là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã trực tiếp bán trái phép 01 gói Hêrôin cho Lò Văn H, thu được 50.000 đồng, đồng thời cất giấu trái phép số lượng 4,77 gam Hêrôin để sử dụng và bán cho người khác. Hành vi của bị cáo  đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm gia tăng người nghiện ma túy trong xã hội và tiếp tay cho các loại tội phạm, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần được phát hiện kịp thời và áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trên địa bàn.

[3]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2015 cho đến nay, bản thân chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "Thành khẩn khai báo", quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung; vật chứng; án phí và các vấn đề khác trong vụ án:

Hình phạt bổ sung: Bị cáo ngoài thu nhập chủ yếu từ làm ruộng, không còn thu nhập ổn định khác, không có tài sản riêng có giá trị nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự, vì vậy không áp dụng.

Vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 50.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 4,77 gam Hêrôin, đã trích 0,13 gam gửi giám định không hoàn lại, loại Nhà nước cấm lưu hành; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long và 01 chiếc áo khoác màu xám đã cũ không còn giá trị sử dụng là vật chứng của vụ án.

Án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Người đàn ông dân tộc Thái mà T khai là người bán số ma túy cho T, do không biết tên, tuổi và địa chỉ của người này nên không có cơ sở xem xét, giải quyết. Lò Văn H là người đã mua Hêrôin của T để sử dụng và đã sử dụng hết. Hành vi của Lò Văn H không cấu thành tội phạm nên không đề cập giải quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm a, điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủyban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

 2. Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/8/2017.

3. Vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 50.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 4,77 gam Hêrôin, đã trích 0,13 gam gửi giám định không hoàn lại; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long và 01 chiếc áo khoác màu xám đã cũ. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2017.

4. Án phí: Buộc bị cáo Quàng Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơthẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HSST ngày 15/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về