Bản án 1313/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1313/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2017 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 549/2017/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1924/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M; cư trú tại: đường A, phường B, quận C,

Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Huy K ; cư trú tại:đường D, Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 17 tháng 4 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị M trình bày: Bà và ông K tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2011. Ông bà chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn do ông K nghiện ma túy, nhiều lần đi cai nghiện, không có trách nhiệm với gia đình. Bà cố gắng khuyên ông K, tạo điều kiện cho ông K thay đổi để vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng vẫn không có kết quả. Ông bà không tìm được tiếng nói chung trong đời sống hôn nhân và đã sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Bà chung sống với ông K không hạnh phúc nên khởi kiện yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông K

Về con chung: Bà yêu cầu trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Trung H, sinh ngày 14/11/2011 cho đến tuổi trưởng thành. Bà và ông K tự thực hiện cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về chia tài sản khi ly hôn: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà M nộp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ sau: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 126/2011, quyển số 02/2011 do Ủy ban nhân dân Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông K và bà M vào ngày 16/12/2011; giấy khai sinh của trẻ H; chứng minh nhân dân và hộ khẩu của bà M và ông K.

2. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho ông K và triệu tập ông K đến Tòa án để ghi nhận ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông K không đến Tòa. Sau đó, Tòa án tống đạt thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông K nhưng ông K vẫn không đến Tòa, không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và cũng không có ý kiến về các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán thực hiện đúng qui định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đúng qui định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng qui định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp nhận thấy hôn nhân giữa ông K và bà M là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Ông bà chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do ông K nghiện ma túy, không quan tâm, chăm sóc vợ con dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn hạnh phúc gia đình. Do đó, việc bà M yêu cầu ly hôn với ông K là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:

Về quan hệ hôn nhân: Bà M được ly hôn với ông K

Về con chung: Giao cho bà M trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Trung H, sinh ngày 14/11/2011 cho đến tuổi trưởng thành. Bà M và ông K tự thực hiện cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

Về tài sản chung: Bà M không yêu cầu chia tài sản khi ly hôn nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông K, đây là tranh chấp về ly hôn. Ông K cư trú tại quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông K tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông K vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông K

 [2] Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn:

Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa bà M và ông K là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được công nhận hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của bà M, Hội đồng xét xử nhận thấy: Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Bà M yêu cầu ly hôn vì ông K nghiện ma túy, không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng sống ly thân đã lâu điều này thể hiện hôn nhân giữa ông bà đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã triệu tập ông K tham gia phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho bà M và ông K hàn gắn đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con chung nhưng ông K không có thiện chí giải tỏa mâu thuẩn, hàn gắn tình cảm vợ chồng và không có ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà M. Kết quả xác minh của Hội liên hiệp phụ nữ Phường D, quậnC, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 14/6/2017 thể hiện: Trong thời gian bà M và ông K chung sống tại địa chỉ đường G, Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, bà M và ông K có xảy ra mâu thuẫn hay không, Hội liên hiệp phụ nữ Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh không nắm bắt được. Hiện nay, gia đình của bà M và ông K đã bán nhà chuyển đến nơi khác sinh sống nên Hội liên hiệp phụ nữ Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh không biết. Chủ mới đã về ở tại căn nhà này và không biết thông tin về bà M và ông K

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3] Về người trực tiếp nuôi con: Hiện nay, bà M đang trực tiếp nuôi trẻ Nguyễn Trung H, sinh ngày 14/11/2011. Để ổn định tinh thần và cuộc sống cho trẻ, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà M, giao cho bà M trực tiếp nuôi trẻ H.

 [4] Về mức cấp dưỡng nuôi con: Bà M không yêu cấu ông K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

 [5] Về tài sản chung: Bà M không yêu cầu chia tài sản khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xét.

 [6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bà M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị M được ly hôn với ông Nguyễn Huy K.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 126/2011, quyển số 02/2011 do Ủy ban nhân dân Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Kvà bà Mvào ngày 16/12/2011 hết hiệu lực.

2. Về con chung: Giao cho bà M trực tiếp nuôi trẻ Nguyễn Trung H, sinh ngày 14/11/2011 đến tuổi trưởng thành. Bà M và ông K tự thực hiện cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ông K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà M không yêu cầu chia tài sản khi ly hôn.

4. Về án phí: Bà M phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0018327 ngày 25/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà M đã nộp đủ án phí.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1313/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1313/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về