Bản án 131/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 131/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 130/2021/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn H, sinh ngày 26/12/1991, tại tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị X; chưa có vợ con;

Tiền án: Không;

Tiền sự: 01 tiền sự, Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 02/2018/QĐ - TA ngày 19/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đối với Phạm Văn H, với thời hạn là 21 tháng. Đến ngày 28/12/2020 chấp hành xong.

Nhân thân:

- Bản án hình sự số 64/2012/HSST ngày 07/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo Phạm Văn H 02 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2012. Phạt bổ sung 3.000.000 đồng. Bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 27/4/2014 Phạm Văn H đã chấp hành xong án phạt tù, ngày 24/3/2013 đã thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm và tiền phạt bổ sung.

- Bản án hình sự số 28/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo Phạm Văn H 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2015. Bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 27/10/2015 Phạm Văn H đã chấp hành xong án phạt tù, ngày 20/7/2015 đã thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm.

Bị tạm giữ từ ngày 18/6/2021 đến ngày 21/6/2021 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Trần Đức L, sinh năm 1981, trú tại số nhà 19, tổ 21, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2. Anh Trịnh Quốc T, sinh năm 1986 trú tại số nhà 37, tổ 14, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 18/6/2021 Phạm Văn H đi xe ôm từ nhà đến khu vực ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố T với mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây H gặp và hỏi mua của một người nữ giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ 200.000 đồng được 01 gói ma túy, loại Hêrôin. H cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải đi bộ một mình tìm chỗ để sử dụng. Khi H đi đến khu vực ngõ 02, đường H, tổ 11, phường Q, thành phố T thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Tại đây trước sự chứng kiến của anh Trần Đức L và anh Trịnh Quốc T. Phạm Văn H đã đưa từ lòng bàn tay phải ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói, bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, mở ra kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, H khai là Hêrôin của H vừa mua về mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã gói lại và niêm phong trong phong bì có chữ ký của H và những người làm chứng. Kiểm tra thu tại túi quần bên phải của H đang mặc số tiền 10.000 đồng, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 241/KLGĐMT - PC09 ngày 21/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi “Vật chứng quản lý của Phạm Văn H, ngày 18/6/2021” gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1532 gam (Không phẩy một nghìn năm trăm ba mươi hai gam).

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như trên. Lời khai của những người làm chứng là anh Trần Đức L và anh Trịnh Quốc T đều thể hiện như lời khai của bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 133/CT-VKSTPTB ngày 13/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố Phạm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/6/2021. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa ma túy hoàn trả sau giám định. Trả lại bị cáo 10.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người làm chứng và còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 10 giờ 25 phút ngày 18/6/2021; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 11 giờ 25 phút ngày 18/6/2021; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định lập hồi 13 giờ 30 phút ngày 18/6/2021 tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 241/KLGĐMT - PC09 ngày 21/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 18/6/2021, tại khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 11, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an thành phố Thái Bình bắt quả tang Phạm Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1532 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Điều 249 Bộ luật hình sự, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…” Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đã hai lần bị Tòa án xử phạt tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thành khẩn khai báo nên giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Số ma túy hoàn trả sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 10.000 đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo cần trả lại bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[6] Đối với người bán ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của một người nữ giới khoảng 30 tuổi tại khu vực ngõ 2, đường H, tổ 4, phường Q, thành phố T, nhưng không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Úy ban Thường vụ Quốc hội.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2021. [3].Về xử lý vật chứng:

[3.1].Tịch thu tiêu hủy số ma túy được hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 241/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

[3.2].Trả lại bị cáo 10.000 đồng (Mười nghìn đồng) nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 13/9/2021).

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:131/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về