TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 131/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 110/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh H, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 05 tháng 10 năm 2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị T trình bày:
Chị kết hôn với anh H vào năm 1995 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống và do anh H nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác nên vợ chồng xảy ra đánh cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh H đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 3 năm 2019 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên B, sinh ngày 12 tháng 02 năm 1995 và V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006. Hiện nay con chung tên B đã thành niên, có khả năng lao động và đã có gia đình riêng nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp vợ chồng ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung là nhà và đất tại thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án để vợ chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nếu không tự thỏa thuận phân chia được thì chị sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.
Bị đơn là anh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh H có mặt tại phiên tòa nhưng anh H vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh H không tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T. Về hôn nhân: Cho chị T được ly hôn anh H. Về con chung: Giao con chung tên V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh H có nơi cư trú tại thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng, Toà án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để anh H có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T nhưng anh H vắng mặt không có lý do. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện anh H có đăng ký hộ khẩu thường trú và vẫn đang thường xuyên sinh sống tại thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng. Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh H có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị T nhưng anh H vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Vì vậy căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh H.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 3 năm 1995 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị T và anh H chung sống hoà thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị T trình bày do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống và do anh H nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác nên vợ chồng xảy ra đánh cãi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 3 năm 2019 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H. Bị đơn là anh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh H có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T nhưng anh H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện quá trình vợ chồng chị T và anh H chung sống hòa thuận đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống và không tin tưởng lẫn nhau về mặt tình cảm nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh H đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị T và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T về việc xin ly hôn anh H, cho chị T được ly hôn anh H.
[3] Về con chung: Chị T và anh H có 02 con chung tên B, sinh ngày 12 tháng 02 năm 1995 và V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006. Khi ly hôn chị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng, còn con chung tên B đã thành niên, có khả năng lao động và đã có gia đình riêng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh H không đến Tòa án trình bày ý kiến về con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện con chung tên B đã thành niên và có gia đình riêng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết, còn con chung tên V đang ở cùng với chị T và anh H tại thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng. Xét chị T và anh H đều có điều kiện và khả năng nuôi con nhưng anh H không có ý kiến về con chung, mặt khác con chung tên V có nguyện vọng được ở cùng với mẹ là chị T. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao con chung tên V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị T trình bày vợ chồng tài sản chung là nhà và đất tại thôn 9, xã S, huyện N, thành phố Hải Phòng. Khi ly hôn chị T đề nghị Tòa án để vợ chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nếu không tự thỏa thuận phân chia được thì sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau. Anh H chưa có ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này, khi các đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết việc chia tài sản bằng vụ án khác.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử :
1. Cho chị T được ly hôn anh H.
2. Về con chung: Giao con chung tên V, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.
3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000783 ngày 22 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 131/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 131/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về