TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 131/2019/HSST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 21/8/2019 Tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 120/2019/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117 /2019/QĐXXST-HS ngày 02/8/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 13/2019/HSST-QĐ ngày 14/8/2018 đối với bị cáo:
1. Họ tên: Lò Thị E. Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1977, tại Điện Biên. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Bản L 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Thái Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng.Trình độ học vấn: Không biết chữ Con ông: Lò Văn H (đã chết). Con bà: Quàng Thị C, sinh năm 1949. Gia đình bị cáo có 6 anh em, bị cáo là con thứ 6 trong gia đình. Bị cáo có chồng: Lù Văn H (đã chết). Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1999 con nhỏ nhất sinh năm 2003. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/4/2019. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
2. Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Đình M - Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 23/4/2019, Lò Thị E đang ở nhà tại bản L2, xã M, huyện Đ thì có một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) vào nhà bán cho E, 08 gói Heroine (01 gói được gói bằng nilon màu vàng và 07 gói được gói bằng nilon màu hồng) và 33 viên Methamphetamine (gồm 03 viên màu xanh và 30 viên màu hồng) với giá 450.000 đồng. Sau khi trao đổi mua bán xong người đàn ông đó đi đâu E không biết. Còn Lò Thị E cất giấu số ma túy vừa mua được ở túi quần bên phải đang mặc mục đích để bán lại cho người khác kiếm lời. Hồi 13 giờ 50 phút ngày 25/4/2019, khi Lò Thị E đang ở nhà thì tổ công tác Công an huyện Điện Biên vào nhà kiểm tra, khi thấy tổ công tác Công an huyện E đã lấy số ma túy ra cầm ở tay phải định vứt đi nhằm tẩu tán vật chứng, trốn tránh trách nhiệm thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại tay phải của Lò Thị E 08 gói nhỏ Heroine có tổng khối lượng 1,3 (một phẩy ba) gam và 33 viên Methamphetamine, có tổng khối lượng 3,02 (ba phẩy không hai) gam.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 25/4/2019 đã xác định: Toàn bộ số cục bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang của bị cáo có khối lượng là 1,3 gam, ký hiệu M1, trích 0,16 gam gửi giám định.
30 viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang của E có khối lượng là 2,74gam trích 0,18 gam gửi giám định ký hiệu M2.
03 viên nén màu xanh thu giữ khi bắt quả tang của En có khối lượng là 0,28 gam trích 0,1 gam gửi giám định ký hiệu M3.Tổng khối lượng hai chất ma túy thu giữ của bị cáo là 4,32gam.
Tại bản kết luận giám định số 468/GĐ-PC09 ngày 08/5/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị E gửi giám định là chất ma túy loại Heroine. Mẫu viên nén màu hồng và màu xanh trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị E là chất ma túy loại Methamphetanmine không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định.
Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKSĐB ngày 09/7/2019; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Thị E về tội: " Mua bán trái phép chất ma túy theo Khoản 1 Điều 251/BLHS.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: " Mua bán trái phép chất ma tuý" đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251/BLHS 2015; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo Lò Thị E từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng của vụ án;
Áp dụng Điều 12 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí đối với bị cáo.
Tại bản luận cứ bào chữa: Người bào chữa cho bị cáo nhất trí quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, quyết định xét xử của Tòa án đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, có bố để là ông Lò Văn H được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/ BLHS đề nghị áp dụng hình phạt đầu khung của khoản 1 Điều 215/BLHS là phù hợp với hành vi phạm tội. Bị cáo sinh sống tại xã đặc biệt khó khăn đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí HSST cho bị cáo. Bị cáo hoàn toàn nhất trí bản luận cứ bào chữa của người bào chữa không có ý kiến bổ sung vào bản luận cứ.
Tại phiên tòa bị cáo Lò Thị E một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Điện Biên, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:
Khoảng 10 giờ ngày 23/4/2019, Lò Thị E đang ở nhà tại bản L 2, xã M, huyện Đ thì có một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) vào nhà bán cho E, 08 gói Heroine (01 gói được gói bằng nilon màu vàng và 07 gói được gói bằng nilon màu hồng), 33 viên Methamphetamine (gồm 03 viên màu xanh và 30 viên màu hồng) với giá 450.000 đồng. Sau khi trao đổi mua bán xong người đàn ông đó đi đâu E không biết. Còn Lò Thị E cất giấu số ma túy vừa mua được ở túi quần bên phải đang mặc mục đích để bán lại cho người khác kiếm lời. Nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang. Khối lượng 08 gói heroine thu giữ khi cân là 1,3 gam. 33 viên Methamphetamine (gồm 03 viên màu xanh và 30 viên màu hồng có khối lượng là 3,02 gam. Tổng khối lương hai chất ma túy mà bị cáo bị thu giữ là 4,32 gam. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 2 đến 7 năm tù.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được ghi tại biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản khám xét.
Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt mà pháp luật quy định do hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
[2]. Xét tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi đó đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa bàn xã M nói riêng và huyện Đ nói chung. Hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma tuý và tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma tuý hoạt động, ảnh hưởng đến trật tự trị an trong xã hội. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cho thấy. Sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, không được đi học mà ở nhà làm ruộng. Năm 1997, xây dựng gia đình với Lù Văn H, năm 2012 Lù Văn Hương chết. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố để là ông Lò Văn H được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. HĐXX xét thấy bị cáo mua ma túy về nhằm mục đích để bán kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải sửa lỗi lầm của mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[4]. Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS. Nhưng xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chồng chết phải nuôi hai con, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động sản xuất nông nghiệp ngoài ra không có thu nhập nào khác, nên không có khả năng thi hành. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Nguồn gốc số Heroine trên theo lời khai của bị cáo đã mua của một người đàn ông dân tộc H'Mông khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ được do vậy HĐXX không xem xét trong vụ án.
[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng.
Tịch thu tiêu huỷ 1,3 gam heroine đã trích 0,16 gam ký hiệu (M1) gửi giám định không hoàn lại. 2,74 gam Methamphetamine trích 0,18 (M2) gam gửi giám định không hoàn lại và 0,28 gam Methamphetamine trích 0,1 gam (M3) gửi giám định không hoàn lại.
[7]. Về án phí: Bị cáo có hộ khẩu thường trú tại xã đặc biệt khó khăn thuộc diện miễn án phí. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251/BLHS; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị E phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”
2. Xử phạt bị cáo Lò Thị E 04 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (25/4/2019).
3. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.
Tịch thu tiêu huỷ 1,3 gam heroine đã trích 0,16 gam ký hiệu (M1) gửi giám định không hoàn lại. 2,74 gam Methamphetamine trích 0,18 (M2) gam gửi giám định không hoàn lại và 0,28 gam Methamphetamine trích 0,1 gam (M3) gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 11/7/2019).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 bị cáo Lò Thị E được miễn toàn bộ án phí HSST.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm( ngày 21/8/2019)
Bản án 131/2019/HSST ngày 21/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 131/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về