Bản án 131/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 131/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 99/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương Văn Đ, sinh năm 1991 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: TM, xã AT, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Công H và bà Hà Thị M; có vợ tên Hà Thị T và 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Ông Lô Mạnh C, sinh năm 1994. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Bà Phạm Thị X, sinh năm 1973. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 16/01/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Thuận An phối hợp với Công an phường An Phú kiểm tra hành chính phòng trọ số 03 nhà trọ địa chỉ số X, DC, khu dân cư Việt - Sing, khu phố 4, phường An Phú, thị xã Thuận An có Trương Văn Đ và Lê Mạnh C. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện tại cửa sổ có 01 ví nhựa, bên trong có 05 gói giấy được gấp lại, trong đó chứa chất màu trắng (nghi vấn là heroin) và 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp) nên lực lượng Công an lập biên bản phạm tội quả tang và đưa Đ và C về trụ sở làm việc.

Quá trình điều tra Trương Văn Đ khai: Vào khoảng 18 giờ ngày 15/01/2019, Đ mua 06 gói ma túy là heroin với giá 1.500.000 đồng và 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng của 01 đối tượng không rõ lai lịch tại khu vực huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng. Khoảng 21 giờ ngày 16/01/2019 Đ có sử dụng ma túy chung với C tại phòng trọ. Khi Đ cất giấu số ma túy trên C không biết và cũng không biết về nguồn gốc số ma túy trên.

Bản Kết luận giám định số 137/MT-PC09 ngày 25/01/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận 05 gói giấy đều chứa chất màu trắng (Kí hiệu M1) và 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong có chữ ký của đối tượng Trương Văn Đ, cán bộ niêm phong Ngô Minh Tuấn, chữ ký của Trưởng Công an phường An Phú và dấu mộc đỏ của Công an phường An Phú gửi đến giám định là ma túy, (M1) có khối lượng là 1,1502 gam, loại Heroine; (M2) có khối lượng 0,3366 gam loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 24/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố Trương Văn Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa cùng lời khai và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện Trương Văn Đ đã thực hiện hành vi cất giữ ma túy tại nơi ở nhằm mục đích sử dụng nên có đủ cơ sở để khẳng định Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố Trương Văn Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị căn cứ quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Trương Văn Đ mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Đề nghị tiêu hủy số ma túy thu giữ được còn lại sau giám định.

Bị cáo Trương Văn Đ thừa nhận hành vi như đã khai tại cơ quan điều tra. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Qua tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã mua và cất giữ tại nơi ở 05 gói ma túy là Heroin có khối lượng 1,1502 gam và 01 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,3366 gam thì bị kiểm tra thu giữ.

[3] Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết được tác hại của việc sử dụng ma túy và việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện để có ma túy sử dụng.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Trương Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không gây oan sai cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm an ninh, trật tự tại địa phương, gây lên sự nghiện ngập ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bị cáo, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội, nhiều căn bệnh hiểm nghèo. Do đó, Viện kiểm sát truy tố, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và răn đe các đối tượng khác phòng ngừa chung, nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, bị cáo bổ sung thêm tình tiết có cha là ông Trương Công Hòa tham gia cách mạng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; gia đình bị cáo là hộ nghèo nên được xem xét hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đ diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt như nêu trên là có căn cứ, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với Lê Mạnh C do không biết nguồn gốc ma túy và việc cất giấu ma túy của Trương Văn Đ nên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là đúng quy định.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Trương Văn Đ chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy có khối lượng sau giám định còn lại 1,0822 gam loại Heroin và 0,2757 gam loại Methamphetamine đựng trong bì thư có dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có ký hiệu 137/PC09 là chất cấm nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội:

1. Tuyên bố bị cáo Trương Văn Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Trương Văn Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2019.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư bên trong chứa 1,0822 gam loại Heroin và 0,2757 gam loại Methamphetamine đựng trong bì thư có dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có ký hiệu 137/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương;

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/4/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An).

3. Bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:131/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về