Bản án 130/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 130/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 116/2021/TLST-HS ngày19 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Văn T, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 14/8/1974; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm TT, xã AK, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 4/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Ngô Văn L, đã chết, con bà: Đào Thị N, đã chết; Vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1976, có 02, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2005; Gia đình có 7 anh em, bị cáo là con thứ sáu; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Tại Quyết định số 5563 ngày 01/11/2010 của UBND huyện ĐT, tỉnh Nguyên quyết định bắt buộc người nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 12 tháng (Chấp hành xong ngày 09/11/2011).

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 109 ngày 09/7/2015 của Công an huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Biên bản xác minh ngày 30/10/2015 của Công an huyện ĐT đã xác định Ngô Văn T không có khả năng nộp phạt hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa).

1 * Những người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Lương Văn K, sinh năm 1964 (vắng mặt tại phiên tòa)

Trú tại: Xóm BC, xã AK, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên - Người chứng kiến:

Ông Trương Quốc B, sinh năm 1954 (vắng mặt tại phiên tòa).

Trú tại: Xóm ĐX, xã SC, TP T, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 20 phút ngày 15/12/2020, tổ công tác của Công an xã SC, T phố T đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm CS 2, xã SC thì phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu nâu BKS 20F9 - 5409 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra, người đàn ông tự khai nhận tên là Ngô Văn T và tự giác lấy từ trong túi áo ngực bên trái đang mặc giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng (T khai là Heroine) mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Ngô Văn T và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu nâu BKS 20F9: 5409.

Cùng ngày, Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành mở niêm phong, cân xác định khôi lượng : Số chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,127 gam, lấy mẫu gửi giám định ký hiệu T1.

Tại bản Kết luận giám định số 34/KL-KTHS ngày 23/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột trắng trong bì ký hiệu T1 gửi giám định là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,127 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Ngô Văn T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 15/12/2020 T một mình điều khiển xe mô tô BKS: 20F9 - 5409 đi từ nhà xuống khu vực phường TL, thành phố T mục đích tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân, tại đây T gặp và mua 01 gói ma túy Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng của một người nam giới không quen biết. Sau khi mua ma túy xong, T cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi điều khiển xe về tìm nơi sử dụng thì bị Công an xã SC, thành phố T phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 20F9 - 5409; số khung VH6PCG5 E6YABL8221, số máy: 1P50FMG-310469898. Quá trình điều tra xác định chiếc xe là của ông Lương Văn K, sinh năm 1964, nơi cư trú: xóm BC, xã AK, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Hiện đã được trả cho ông Lương Văn K quản lý, sử dụng.

- 01 Bì niêm phong ký hiệu T1 (bên trong chứa ma túy) là đối tượng hoàn lại sau giám định, hiện đang được lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự T phố Thái Nguyên chờ xử lý. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án T phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKSTPTN ngày 18/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Ngô Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù.Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

-Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu T1.

- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hồi 10 giờ ngày15/12/2020 tại xóm CS 2, xã SC, thành phố T, tổ công tác của Công an xã SC, thành phố T bắt quả tang Ngô Văn T đang có hành vi tàng trữ 0,127 gam Heroine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lơi khai nhân tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lơi khai cua bi cao tai cơ quan điêu tra, phù hợp vơi lơi khai cua người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản Kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249Bộ luật Hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhưng có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy, bị cáo đã được cai nghiện nhưng không từ bỏ được ma túy mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã T khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3]. Vật chứng của vụ án: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 20F9 - 5409; số khung VH6PCG5 E6YABL8221, số máy: 1P50FMG- 310469898, bị cáo sử dụng đi mua ma túy, bị cáo mượn xe của ông Lương Văn K. Khi mượn xe, bị cáo không nói cho ông K biết bị cáo đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định xe là của ông ơng Văn K, sinh năm 1964, nơi cư trú: xóm BC, xã AK, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Hiện đã được trả cho ông Lương Văn K quản lý, sử dụng là phù hợp.

Đối với phong bì niêm phong kí hiệu T1(bên trong có chứa Heroine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hình phạt đối với bị cáo có phần nghiêm khắc so với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo T khai mua ma túy của một người đàn ông không quen biết tại khu vực cầu chui thuộc phường TL, thành phố T. Quá trình điều tra do không xác định được nhân thân, lai lịch địa chỉ của người đàn ông trên nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Ngô Văn T 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu T1.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2021giữa cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Ngô Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về