Bản án 130/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH B

BẢN ÁN 130/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 130/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Đinh Công Hoàng T, sinh năm 1986 tại: Thành phố Hồ Chí M; thường trú: 64/57/45/32 Nguyễn K, phường 2, Quận 4, Thành phố H; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Công G, sinh năm 1965 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1964; tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 22-9-2016, bị Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố H áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng theo Quyết định số 408/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 19-10-2017.

Bị tạm giữ từ ngày 08-5-2019 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay;

Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thành T và ông Lương Hữu T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Công Hoàng T là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy mà T sử dụng là ma túy tổng hợp (ma túy đá). Khoảng 19 giờ ngày 07-5-2019, T đang ở phòng trọ tại phường K, thị xã T, tỉnh B thì nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng. T điều khiển xe mô tô biển số 59C1-671.61 đi đến khu vực cầu Nguyễn Văn C thuộc Quận 8, Thành phố H gặp đối tượng tên K (không rõ lai lịch, đã bán ma túy cho T nhiều lần trước đó) mua 700.000 đồng ma túy được bỏ trong bịch nylong miệng dán kéo dính rồi bỏ vào trong túi quần. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 08-5-2019, T về đến đoạn đường thuộc khu phố L, phường K, thì bị lực lượng tuần tra thuộc Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh B đang hành tuần tra thấy có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của T có một bịch nylong miệng dán kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Nghi vấn đây là ma túy nên lực lượng tuần tra đưa T cùng vật chứng về trụ sở Công an phường K làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm:

- 01 bịch nylong miệng dán kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại JUPITER, màu đen, biển số 59C1-671.61, số máy 31C3016738, số khung RLCJ31C30AY016730;

- 01 ống thủy tinh có một đầu hình tròn và một ống thủy tinh có một đầu hình tròn đã bị bể.

Ngoài ra, Công an phường K lập biên bản tạm giữ đồ vật mà T mang theo gồm: 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Đinh Công Hoàng T; 01 giấy đăng ký xe biển số 59C1-671.61 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã trưng cầu giám định đối với thành phần chất màu trắng đã thu giữ của T. Tại Bản kết luận giám định số 368/MT-PC09 ngày 14-5-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu tinh thể gửi đi giám định là ma túy, có trọng lượng: 2,2570 gam, loại Methamphetamine.

Bn Cáo trạng số 135/CT-VKS.TU ngày 14-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh B đã truy tố bị cáo Đinh Công Hoàng T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đinh Công Hoàng T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Công Hoàng T khai phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như tang vật chứng bị thu giữ. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 08-5-2019, tại khu phố L, phường K, thị xã T, tỉnh B, Đinh Công Hoàng T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 2,2570 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện; xâm phạm an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo có 01 tiền sự, ngày 22-9-2016, bị Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố H áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng, chấp hành xong ngày 19-10-2017. Do đó cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe, giáo dục.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đề nghị mức án đối với bị cáo như trên là phù hợp với tính chất, mức độ và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Đối với 01 ống thủy tinh có một đầu hình tròn và 01 ống thủy tinh có một đầu hình tròn đã bị bể và số ma túy cần tịch thu tiêu hủy. Đối với điện thoại di động hiệu Oppo màu đen là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại JUPITER màu đen, biển số 59C1-671.61 là tài sản của bị cáo, được sử dụng làm phương tiện mua ma túy nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Đinh Công Hoàng T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1- Về trách nhiệm hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh Công Hoàng T 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08-5-2019.

2- Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 2,1560 gam ma túy loại Methamphetamine (đựng trong bì thư dán kín được niêm phong, bên ngoài có ký hiệu 368/PC09, có chữ ký của bị cáo, chữ ký của người chứng kiến Nguyễn Hữu N, Phan Minh T, chữ ký của cán bộ niêm phong Bùi Thanh G, hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kĩ thuật hình sự Công an tỉnh B); 01 ống thủy tinh có một đầu hình tròn và 01 ống thủy tinh có một đầu hình tròn đã bị bể.

Tch thu, nộp ngân sách Nhà nước xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại JUPITER màu đen, biển số 59C1-671.61, số máy 31C3016738, số khung RLCJ31C30AY016730 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59C1- 671.61.

Trả lại cho bị cáo Đinh Công Hoàng T căn cước công dân tên Đinh Công Hoàng T; 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Đinh Công Hoàng T; 01 điện thoại Oppo màu đen. (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28-8-2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh B).

3- Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Đinh Công Hoàng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về