Bản án 130/2019/HSST ngày 09/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 130/2019/HSST NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 127/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn D, sinh ngày 17/3/1980 tại huyện V, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản X, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn P và bà Phan Thị N; có vợ là Hà Thị T; có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 08/4/2019 đến nay. Có mặt.

2. Hà Văn T, sinh ngày 02/02/1978 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản X, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La; chỗ ở: Tiểu khu C, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn P (đã chết), con bà Hà Thị N; có vợ là Hà Thị B, có 01 con sinh năm 2003; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 08/4/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 08/4/2019, Phạm Văn D thuê xe ôm của một người không quen biết đi từ nhà ở của D đến nhà của Hà Văn T tại Tiểu khu C, thị trấn N, huyện M. Khi gặp T, D rủ T mỗi người góp 50.000 đồng để cùng nhau đi mua ma túy sử dụng chung. T đồng ý, nhận 50.000 đồng của D và góp thêm 50.000 đồng, tổng cộng được 100.000 đồng. Sau đó T và D cùng nhau đi bộ ra đường Quốc lộ 6 thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, khoảng 35 tuổi không quen biết. T đã hỏi và mua được của người phụ nữ dân tộc Mông đó 02 viên Methamphetamine với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cầm 02 viên Methamphetamine trong lòng bàn tay trái rồi cùng D đi vào một lán nương bỏ hoang thuộc Tiểu khu C, thị trấn N, huyện M để sử dụng. Đến 15 giờ cùng ngày, khi D và T vừa sử dụng hết 1/2 viên (0,5 viên) Methamphetamine thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện, thu giữ: 1,5 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine đang được đựng trong mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ. Phạm Văn D và Hà Văn T khai nhận số 1,5 viên nén màu hồng tổ công tác thu giữ là ma túy của D và T, mục đích để sử dụng chung. Căn cứ hành vi vi phạm của Phạm Văn D và Hà Văn T, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, dẫn giải Hà Văn T và Phạm Văn D bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/4/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng 1,5 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Hà Văn T và Phạm Văn D được tổng khối lượng 0,14 gam, lấy 0,09 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu ký hiệu T.

Tại kết luận giám định số 749 ngày 10/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,14 gam; loại Methamphetamine".

Cáo trạng số: 127/CT-VKSMC ngày 28/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Phạm Văn D, Hà Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phạm Văn D, Hà Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt các bị cáo như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn D từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hà Văn T và Nguyễn Văn Hồng, bắt ngày 08/4/2019: Bên trong đựng 0,05 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu và chiếc bật lửa ga màu đỏ; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Hà Văn T ngày 08/4/2019. KQ: Dương tính; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Văn Hồng ngày 08/4/2019. KQ: Dương tính.

4. Các bị cáo Phạm Văn D, Hà Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn D, Hà Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định và lời khai của người chứng kiến sự việc.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 08/4/2019 Phạm Văn D và Hà Văn T mỗi người góp 50.000 đồng mua được 02 viên Methamphetamine. Sau đó D và T sử dụng hết 0,5 viên Methamphetamine. Còn lại 1,5 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 0,14 gam D và T chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Phân hóa vai trò phạm tội của các bị cáo thấy rằng, bị cáo Phạm Văn D là người khởi xướng, rủ Hà Văn T mỗi người góp 50.000 đồng để đi mua ma túy về sử dụng chung do đó Phạm Văn D giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Hà Văn T tiếp nhận ý chí, cùng góp 50.000 đồng để cùng với D đi mua ma túy để sử dụng chung, do vậy Hà Văn T là đồng phạm trong vụ án.

Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng các bị cáo có nhân thân xấu, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy. Các bị cáo nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra, cần cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo cũng cần xem xét sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,05 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu và bật lửa ga màu đỏ là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vỏ gói niêm phong ban đầu là vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 phong bì niêm phong đựng Test thử ma túy của Hà Văn T; 01 phong bì niêm đựng Test thử ma túy của Phạm Văn D là vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Phạm Văn D và Hà Văn T vào ngày 08/4/2019. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét thấy thời hạn tạm giam của các bị cáo còn lại trên 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam sau phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Văn D, Hà Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 08/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 08/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hà Văn T và Nguyễn Văn Hồng, bắt ngày 08/4/2019: Bên trong đựng 0,05 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu và chiếc bật lửa ga màu đỏ; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Hà Văn T ngày 08/4/2019. KQ: Dương tính; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Văn Hồng ngày 08/4/2019. KQ: Dương tính.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Phạm Văn D, Hà Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2019/HSST ngày 09/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về