Bản án 130/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 130/2017/HSST NGÀY 14/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14/9/2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 134/2017/HSST ngày 18/8/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/5/1985 tại tỉnh Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm N, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở: Số 118 đường P, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn V (sinh năm 1959) và bà Hoàng Thị T (sinh năm 1959); vợ Hoàng Thị M (sinh năm 1986), con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/6/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 16/6/2017, tại ngã tư đường N và đường T, khối 8, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn tổ công tác Công an phường T, thành phố L phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong người của T 02 (hai) gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng; 02 xilanh và 02 ống nước cất.

Tại bản Kết luận giám định số 248/KL-PC54 ngày 20/6/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 02 (hai) gói giấy thu giữ của Nguyễn Văn T đều là chất ma túy Heroine có trọng lượng 0,172 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 132/KSĐT ngày 16/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai bốn) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định, 02 xi lanh và 02 ống nước cất.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận: Với mục đích đi mua ma túy về sử dụng nên hồi 11 giờ ngày 16/6/2017 bị cáo một mình từ nhà đi bộ ra khu vực cổng sau chợ Đ, phường V, thành phố L, bị cáo gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ để mua 02 (hai) gói ma túy với giá 200.000đ đem cất vào trong vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long cầm trên tay trái, tiếp tục đi đến một hiệu thuốc gần đó mua 02 (hai) xi lanh và 02 (hai) ống nước cất và bắt xe ôm đi ra khu vực đường N thuộc khối 8, phường T, thành phố L để sử dụng ma túy nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi tàng trữ 0,172 gam ma túy Hêroin của bị cáo Nguyễn Văn T vào ngày 16/6/2017 đủ căn cứ để khẳng định bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999 tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt thấp hơn (khung hình phạt chỉ từ 01 đến 05 năm tù). Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng quy định có lợicho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng, hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự xã hội tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng đối với bị cáo: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét về nhân thân: bị cáo tuổi đời còn trẻ, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Tuy biết rõ tác hại của ma túy cũng như các quy định của pháp luật liên quan đến việc phòng, chống tệ nạn ma túy, nhưng do lối sống buông thả, coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo gây ra cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung.

Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không cótài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết rõ họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra làm rõ để xử lý. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định, 02 xi lanh và 02 ống nước cất là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy;

Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý ".

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn= tù tính từ ngày tạm giữ 16/6/2017;

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu để tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định, 02 xi lanh và 02 ống nước cất. (Vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/8/2017 ).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự "

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về