TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 130/2017/HSST NGÀY 08/09/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân Quận Lê Chân xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 105/2017/HSST ngày 10/8/2017, đối với bị cáo:
Lê MH, sinh năm 1996 tại Hải Phòng; ĐKNKTT và chỗ ở: Số 25/919 T, phường K, Quận L, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Lê MH, sinh năm 1966 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1968; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Chưa; tạm giữ từ ngày 29/12/2016, tạm giam ngày 06/01/2017, có mặt.
- Người bị hại:
1.Anh Trần Đức M, sinh năm 2003; người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Bá T, sinh năm 1974 cùng trú tại: Tổ 28 phường Đ, Quận N, Hải Phòng, đều vắng mặt;
2. Anh Đồng Sỹ N, sinh năm 1987; trú tại: Số 53 Đ, L, Hải Phòng, vắng mặt
3. Chị Phan Thị Thùy T, sinh năm 1979; trú tại: Số 13/30/31 đường bờmương T, phường K, L, Hải Phòng, vắng mặt;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần M, sinh năm 1978;trú tại: Số 86 N, phường C, quận H, Hải Phòng, vắng mặt;
NHẬN THẤY
Bị cáo Lê MH bị Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân truy tố về các hành vi phạm tội như sau:
1 . Hành vi cướp tài sản: Khoảng 7h 00’ ngày 27/12/2016, Lê MH đi bộ vào quán điện tử số 63 A, N, Hải Phòng thì thấy cháu Lê Tuấn M, sinh năm 2003; trú tại: Số 4/21/28 A, N, Hải Phòng đang ngồi chơi điện tử. H đến cạnh bàn làm quen và dò hỏi cháu M đi bằng phương tiện gì đến, cháu M bảo có bạn học tên là Trần Đức M đi xe đạp điện đến đón. H tiếp tục hỏi cháu MHiện đang ở đâu thì cháu M bảo cháu MHiện đang ở quán số 59 C, Lê Chân, Hải Phòng. H nảy ý định chiếm đoạt chiếc xe đạp điện của cháu M nên đã đi xe ôm từ quán điện tử số 63 A đến quán số 59 C tìm cháu M. Khi gặp được M, H lấy lý do cháu M ăn cắp Nickname của H và yêu cầu M đi cùng H để giải quyết. M đã dùng xe đạp điện BKS: MĐ1 – 12732 của mình chở H đi qua một số đường theo yêu cầu của H. Khi đi đến khu vực nghĩa T Bãi So thuộc địa bàn phường K, Lê Chân, Hải Phòng, thấy khu vực này vắng người, H bảo cháu M tắt máy xuống xe. H đe dọa và dùng tay chân đấm đá vào người cháu M làm cháu M ngã xuống đất. H liền lấy xe đạp điện của cháu M rồi đi đến đường NGT, H tháo BKS vứt đi, sau đó bán xe cho Trần M lấy 2.700.000đ ăn tiêu hết. Sau khi bị H cướp xe, cháu M đã đến công an phường Kênh Dương trình báo. Qua điều tra, ngày 29/12/2016, Lê MH đã bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp của cơ quan điều tra công an quận Lê Chân, thu hồi chiếc xe đạp điện của cháu M do Trần M tự nguyện giao nộp.
Tại bản kết luận định giá số 131 ngày 28/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe đạp điện BKS: MĐ1 – 12732 của cháu Trần Đức M trị giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).
Tại Cơ quan điều tra xét hỏi Lê MH đã khai nhận hành vi của mình như nội dung đã nêu trên.
Người bị hại, cháu Trần Đức M trình báo sự việc bị Lê MH đe dọa và dùng vũ lực chiếm đoạt xe đạp điện như nội dung nêu trên, đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì.
2 . Hành vi trộm cắp tài sản:
Vụ thứ nhất: Khoảng 6h 30’ ngày 28/12/2016, H đi bộ lang thang một mình với mục đích trộm cắp tài sản, khi H đi tới trước cửa nhà số 53 đường Đại học Dân Lập Hải Phòng thì thấy cổng nhà số 53 mở. Trong sân có dựng 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Nouvo LX màu trắng, BKS: 15B1- 297.85 của anh Đồng Sỹ N đang dựng, không có ai trông coi, chìa khóa xe vẫn cắm tại ổ khóa. H đã đi vào dắt xe ra ngoài nổ máy và đi đến quán điện tử số 13/72 Lạch Tray cầm cho Vũ Việt D, sinh năm 1988; trú quán: Số 3 lô 52 khu D1, phường C, H, Hải Phòng là quản lý của quán được 4.000.000đ rồi đổi thành 40.000 điểm chơi bắn cá, bị thua hết. Cơ quan điều tra đã thu hồi chiếc xe môtô do chủ quán điện tử bắn cá số 13/72 Lạch Tray là Đặng Đình T tự nguyện giao nộp và trả lại người bị hại.
Tại bản kết luận định giá số 140 ngày 05/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe môtô nhãn hiệu Nouvo LX màu trắng, BKS: 15B1- 297.85 của anh Đồng Sỹ N trị giá 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng).
Người bị hại, anh Đồng Sỹ N khai: Ngày 28/12/2016, anh N bị mất chiếc xe môtô nhãn hiệu Nouvo LX màu trắng, BKS: 15B1- 297.85, trong cốp xe có 6.500.000đ và một số quần áo. Do chưa đủ cơ sở kết luận H chiếm đoạt những tài sản này nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Lê Chân tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau. Hiện anh N đã nhận lại chiếc xe và không có yêu cầu gì khác.
Vụ thứ hai: Khoảng 11h 00’ ngày 28/12/2016, H đi bộ lang thang một mình với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi tới trước cửa nhà chị Phan Thùy T ở số13/30/31 đường bờ mương Trại, phường Kênh Dương, Lê Chân, Hải Phòng H thấy cửa nhà mở, trong nhà có dựng 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu vàng cam chìa khóa xe vẫn cắm tại ổ khóa. Quan sát thấy trong nhà không có người, H đã vào dắt xe ra rồi đem đến quán điện tử số 13/72 Lạch Tray cầm cho một phụ nữ tên Th (chưa xác định được lai lịch, địa chỉ) là nhân viên của quán lấy 2.000.000đ rồi đổi thành 20.000 điểm chơi bắn cá và bị thua hết. Cơ quan điều tra đã thu hồi chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu vàng cam do chủ quán điện tử bắn cá số 13/72 Lạch Tray là Đặng Đình T tự nguyện giao nộp và trả lại người bị hại.
Tại bản kết luận định giá số 141 ngày 05/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu vàng cam của chị Phan Thùy T trị giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
Người bị hại, chị Phan Thùy T khai: Ngày 28/12/2016, chị T bị mất chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu vàng cam, hiện chị T đã nhận lại chiếc xe và không có yêu cầu gì khác.
Tại Cơ quan điều tra xét hỏi Lê MH đã khai nhận các hành vi của mình như nội dung đã nêu trên.
Đối với Trần M, Vũ Việt D là những người đã mua chiếc xe đạp điện của cháu M và mua chiếc xe máy Nouvo LX của anh Đồng Sỹ N, nhưng không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Lê Chân không xử lý.
Đối với người phụ nữ tên Th là người cầm chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu vàng cam của chị Phan Thùy T, hiện không xác định được lai lịch địa chỉ, nên Cơ quan Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.
Tại bản cáo trạng số 131/CT-VKS ngày 09/8/2017, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố Lê MH về tội Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 và tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà luận tội vẫn giữ N quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị HĐXX áp dụng: Khoản 1 Điều 133, điể MH khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50 - Bộ luật hình sự; xử phạt Lê MH mức án từ 42 đến 48 tháng tù về tội Cướp tài sản; từ 12 đến 15 tháng tù về tộiTrộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc bị cáo phải chịu mức án từ54 đến 63 tháng tù. Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Hiệp số tiền 2.700.000đ.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như trên;
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại,
XÉT THẤY
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Sáng ngày 27/12/2016,với ý định chiếm đoạt xe đạp của cháu Trần Đức M, bị cáo Lê MH đã dùng vũ lực ngay tức khắc như đấm đá vào người làm cháu M ngã xuống đất và đe dọa để chiếm đoạt chiếc xe đạp điện BKS: MĐ1-12732 trị giá 6.000.000đ tại khu vực nghĩa T thuộc địa bàn phường Kênh Dương, Lê Chân, HảiPhòng. Đến ngày 28/12/2016, lợi dụng sơ hở không ai trông coi, bị cáo Lê MH đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiêc xe môtô nhãn hiệu Nouvo LX màu trắng, BKS: 15B1- 297.85 của anh Đồng Sỹ N trị giá 16.000.000đ và chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Nijia màu vàng cam của chị Phan Thùy T trị giá 3.000.000đ. Sau đó đem bán và cầm lấy tiền ăn tiêu, chơi game hết. Do vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê MH đã phạm tội Cướp tài sản, vi phạm khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự và Trộm cắp tài sản, vi phạm khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tínhmạng, sức khỏe và quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội.
Về nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự . Nhưng trong thời gian ngắn bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và đã dùng vũ lực để chiếm đoạt xe của cháu M khi cháu chưa đủ mười bốn tuổi,nên bị cáo phải chịu các tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” của tội trộm cắp tài sản và “Phạm tội đối với trẻ em” của tội cướp tài sản quy định tại các điểm g,h khoản 1 Điều 48 - BLHS.
Do vậy cần xử bị cáo một mức án thật nghiêm, bắt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo phạm hai tội nên cần tổng hợp thành hình phạt chung.
Song cũng xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên cũng xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 - Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại người bị hại, những người bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xét. Tuy nhiên khi chiếm đoạt được xe đạp điện của cháu M bị cáo mang bán cho anh Trần M lấy 2.700.000đ ăn tiêu. Anh Trần M đã giao nộp lại xe cho Công an và yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên. Do khi mua anh Trần M không biết xe đạp do phạm tội mà có nên cần buộc bị cáo có trách nhiệm trả lại anh Trần M số tiền trên.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê MH phạm tội “Cướp tài sản” và phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 133; điể MH khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 1Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50 -Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê MH 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội Cướp tài sản; 12 (Mười hai) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 54 (Năm mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 29/12/2016.
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 166, 584, 585 Bộ luật dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Trần M số tiền là 2.700.000đ (Hai triệu bẩy trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm; nếu không có thỏa thuận thì theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 130/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 130/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về