Bản án 130/2017/HSST ngày 06/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 130/2017/HSST NGÀY 06/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 99/2017/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2017/HSST- QĐXX ngày 22 tháng 6 năm 2017, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L (tên gọi khác: không ); sinh năm 1975 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; nơi đăng ký HKTT và nơi ở: đường N, phường X, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn H và bà Võ Thị T; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ ngày 16 tháng 3 năm 2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 16-03-2017, các cơ quan chức năng kiểm tra hành chính bắt quả tang Nguyễn Văn L đang tàng trữ 01 gói giấy bạc, bên trong chứa chất bột màu trắng, L khai là Heroin. Thu giữ của L 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 500.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 61/GĐ - PC54 ngày 17-03-2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 01 gói giấy bạc, niêm phong trong một phong bì màu vàng, gửi đến giám định có trọng lượng 0,3022 gam, có Heroin.

Bản cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 29-05-2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Văn Lvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiêm sát truy tố đúng tội danh. Bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa bị cáo xác định đã áp dụng biện pháp cai nghiện nhưng vẫn tái nghiện nên đã nhiều lần sử dụng ma túy, bị cáo thừa nhận bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 01 gói Heroin có trọng lượng 0,3022 gam với mục đích để sử dụng. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được tại hiện trường, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong hồ sơ vụ án và thẩm tra lại tại phiên tòa. Hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

So sánh thấy tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt tối đa nhẹ hơn so với tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ( hình phạt tù chung thân so với hình phạt tử hình). Nên áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

 [3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã hội; là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy, cân xử phạt bị cáo mức án nghiêm theo quy định pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhân thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt hành chính và hình sự, mặc dù đã được xóa án tích nhưng bị cáo không rút kinh nghiệm sửa chữa, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, chứng tỏ bị cáo chưa có ý thức ăn năn hối cải. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khân khai báo. Nên xem xét áp dụng điêm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

 [5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói ma túy niêm phong số 61/GĐ ngày 17-03-2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là chất nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia – 358133/05/184650/6, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, nên tịch thu  sung quỹ nhà nước;

- Số tiền 500.000 đ là tài sản hợp pháp của bị cáo, không có chứng cứ chứng minh liên quan đến hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí : Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” .

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt Nguyễn Văn L 02 ( hai ) năm 06 ( sáu ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 3 năm 2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy niêm phong số 61/GĐ ngày 17-03-2017;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia – 358133/05/184650/6;

- Trả lại 500.000 đồng ( năm trăm ngàn đồng ) cho Nguyễn Văn L .

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số: 125/BB.THA ngày 05-06-2017 và Biên lai thu tiền số 0008216 ngày 21-05-2017.

3. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đông) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ( mười lăm ) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2017/HSST ngày 06/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về