TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 129/2021/HS-PT NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Vào ngày 28 tháng 10 năm 2021 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 152/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Lê Uyên Ph, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 30/06/2021 của Tòa án nhân dân huyện D1, tỉnh Bình Dương.
- Bị cáo có kháng cáo: Lê Uyên Ph, sinh năm 1978 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: khu phố 4A thị trấn D1 huyện D1 tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trung H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim L1; có vợ Trần Thị L và có 04 người con; tiền án tiền sự: không; nhân thân: ngày 07/7/1998 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp “đưa vào trường giáo dưỡng cơ sở giáo dục” với thời hạn 18 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng (theo Quyết định số 2539/QĐ-CT); bị Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/01/2021 đến nay bị cáo tại ngoại có mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu xài nên Ph đã lên mạng xã hội Facebook đặt làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mục đích về vay tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ. Để thực hiện ý định ngày 10/11/2020, Ph sử dụng tài khoản Facebook “Ph Lê” lên mạng xã hội Facebook (không xác định được thông tin tài khoản mà Ph giao dịch) đặt làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 133 m2 thửa đất số 54, tờ bản đồ số 68 địa chỉ thửa đất tại thị trấn D1, huyện D1 tỉnh Bình Dương. Hai bên thỏa thuận giá tiền làm giả là 10.000.000 đồng và Ph đã chuyển trước cho bên làm giả số tiền 5.000.000 đồng thông qua hình thức thẻ cào. Đến ngày 18/11/2020, Ph nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CN 109720 số vào sổ CH 02129 ngày 18/7/2020 với tên người được cấp quyền sử dụng đất là Lê Uyên Ph sinh năm 1978 số chứng minh nhân dân 280698504 địa chỉ thường trú: khu phố 4A thị trấn D1 huyện D1 tỉnh Bình Dương. Ph chưa thanh toán số tiền làm giả giấy chứng nhận còn lại là 5.000.000 đồng.
Ngày 20/11/2020, Ph có nhờ ông Nguyễn Văn Ngọc S đi xác nhận tình trạng bất động sản tại Ủy ban nhân dân thị trấn D1 huyện D1 với mục đích để thế chấp vay vốn ngân hàng. Tại đây, Ủy ban nhân dân thị trấn D1 nghi ngờ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là giả nên tiến hành lập biên bản sự việc tạm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý. Qua làm việc, Ph khai nhận do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên đặt làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả với mục đích là để đi vay tiền tiêu xài và trả nợ. Đến ngày 24/11/2020, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện D1 chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện D1 để tiến hành xác minh làm rõ.
Ngày 14/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương có Kết luận giám định số 05/GĐ-PC09 như sau: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số: CN 109720 mang tên “Lê Uyên Ph” sinh năm 1978 số chứng minh nhân dân: 280698504 địa chỉ: khu phố 4A thị trấn D1 huyện D1 tỉnh Bình Dương đề ngày 18/7/2020 (ký hiệu A) là giấy giả.
Nhận thấy hành vi của Ph đủ yếu tố cấu thành tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện D1 khởi tố vụ án khởi tố bị can theo quy định. Riêng hành vi của ông S, do Ph nhờ đi đến Ủy ban nhân dân thị trấn D1 làm thủ tục xác nhận tình trạng bất động sản do quen biết nên ông S giúp Ph, ông S không biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là do Ph đặt làm giả nên hành vi của ông S không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên không xử lý theo quy định.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2021 Tòa án nhân dân huyện D1 tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Uyên Ph phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
Xử phạt bị cáo Lê Uyên Ph 07 (bảy) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
Ngày 05 tháng 7 năm 2021 bị cáo Lê Uyên Ph kháng cáo xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý và đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm là đúng theo quy định tại các Điều 332 333 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm xác định do vậy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm được quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật. Với tình chất mức độ thực hiện tội phạm Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 07 tháng tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy không có cơ sở xem xét kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận trong lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo chăm sóc cho gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định là đúng.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm xác định: Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo Ph đã lên mạng xã hội Facebook đặt làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CN 109720 số vào sổ CH 02129 ngày 18/7/2020, đứng tên Lê Uyên Ph. Ngày 20/11/2020, bị cáo Ph có nhờ ông S đi xác nhận tình trạng bất động sản để vay vốn ngân hàng khi ông S đến Ủy ban nhân dân thị trấn D1 để xác nhận giúp Ph thì bị phát hiện lập biên bản thu giữ chứng cứ. Tại Kết luận giám định số 05/GĐ-PC09 ngày 14/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CN 109720 số vào sổ CH 02129 ngày 18/7/2020, đứng tên Lê Uyên Ph là giả được tạo bằng Ph pháp in phun màu điện tử. Hành vi khách quan của bị cáo Ph thể hiện: bị cáo không trực tiếp làm giả nhưng đã chủ động thuê cung cấp thông tin cá nhân cho đối tượng (không rõ nhân thân lai lịch) làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của bị cáo Ph do vậy hành vi của bị cáo Lê Uyên Ph đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Ph phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” là chưa đúng với hành vi khách quan của bị cáo. Do vậy cần xác định lại tội danh của bị cáo Ph cho phù hợp.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
Bị cáo Ph có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự (bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn là lao động chính trong gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương). Bị cáo Ph không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy trường hợp của bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội tạo điều kiện cho bị cáo được tự cải tạo sửa chữa bản thân làm người có ích cho xã hội; đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội. Do vậy, kháng cáo của bị cáo là có căn cứ chấp nhận.
[4] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Uyên Ph. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 30 ngày 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện D1, tỉnh Bình Dương như sau:
Tuyên bố bị cáo Lê Uyên Ph phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Uyên Ph 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng thời gian thử thách tính từ ngày Tòa tuyên án (28 tháng 10 năm 2021).
Giao bị cáo Lê Uyên Ph về Ủy ban nhân dân thị trấn D1 huyện D1 tỉnh Bình Dương trực tiếp giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Lê Uyên Ph thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Lê Uyên Ph không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 129/2021/HS-PT ngày 28/10/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức
Số hiệu: | 129/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về